Lời dẫn chuyện
Mệ Đờn
Mệ ghen
Mệ dì
Vô ảnh trúc
Cánh yên đào nơi bắc địa
Đạo phối
Dưới bóng hoàng lan
Bà Ấm Liêu
Luận bàn “chùng lén” sau lưng Mệ
Hương đêm
Dì Thừa
“Phố đèn đỏ” quê tôi
Địa chủ
Khoảng trời sau khung cửa
Vườn xuân trong ký ức
Mệ và lan
Trái cấm vườn nhà tôi
Cô Sen: Nàng lady X xinh đẹp của tôi
Góc nhỏ miền cực lạc
Ngôi chợ cổ tích
---------------------------------------------
Mệ Đờn
Mi chỉ rướn lên hay chùng xuống chút xíu cái trục tăng âm là mọi chuyện sẽ khác. Đừng tưởng cây đờn chỉ một sợi tơ là dễ dãi, dễ chịu, dễ vặn, dễ xài... vì chúng cô thế. Hắn là đứa không nằm trong nhóm bầy đống như nguyệt cầm, tỳ bà, thập lục hay tam thập lục..., cứ tiếng nghe đặng là vẻ dáng õng ẹo rung nhấn, nhún, vuốt, tùy thích, để rồi ai đó cứ ỷ y theo chúng hiếp phận độc huyền. Ui chao là nhảm nhí!!!!
Lẽ ra, ở đây tau không xâm lo bàn chuyện “đờn gảy tai trâu”, vì ở đâu mà chẳng có loại tai vô tri, vô cảm, hoặc vờ vĩnh thính nhĩ, tri âm, khen chê tào lao xịch bộp...
Mệ cứ thế, nói chẳng cần ai hiểu, thủng thẳng nâng chén, nhắp tiếp ngụm rượu dầm từ tay thằng cháu. Mệ khoái chí cậu trẻ đang ngồi đối diện, vì nó giống Mệ, một đời ham chơi cho lịch, tính phong lưu phóng dật, lại hăm hở hóng chuyện tầm phào.
Ông lão mà mọi người thường gọi là Mệ cười tinh quái, ém chùm râu bạc, áp vào tai thằng bạn đời vong niên thầm thì:
- Tau nói chạ chạ nhưng không trật một ly, thần kinh của mấy mụ đàn bà có một sợi cảm âm lạ lắm mi ơi, đụng vô là mệt chuyện. Bao chặng bôn ba lên bờ xuống ruộng vì bị vợ mình, hay chồng người đánh ghen, thằng già hư đốn như tau mới ngộ ra điều nớ. Ui chao là khoái chí.
Mệ vỗ đét một cái vào bắp bả mình, giọng nhỏ lại nhưng vẫn đặc chất tinh quái:
- Mi có tin không? Tình cờ một đêm, bên cái chái đông phủ thờ trăng dọi, mụ Tham sự trốn chồng trong y trang trễ nải, gập người gối đầu lên đùi tau, cây đờn chệch hướng. Ngay khoảnh khắc đó, không chừng “Độc huyền lão tổ” đã bẻ tay tên môn đồ láu cá như tau, lập tức tau chộp ngay thời cơ, chạm trúng phóc cái độ căng đẹp vô hậu của sợi dây bầu, tau vuốt nhẹ cần đờn, nhún, rung, lắc, nhấn... và ngộ ngay lập tức. Thế là... ha..ha... khoảnh khắc mà bỗng dưng sợi ni đánh trúng sợi tê trong cái đầu đê mê đang gối trên đùi mình. Mụ vợ ngài Tham sự giật mình trố mắt nhìn tau, mặt đỏ lừ... lúng la, lúng liếng... Tau chẳng biết khi nớ mụ đang cảm thấy điều gì... nhưng tau thì khoái quíu luôn mi nà!
- Thiệt không rứa Mệ? Truyền cho tui cái chiêu này đi. Nghe mà điếng cả người...
- Khà khà! Khoảng ni thì cả ông bà, ông vải tau cũng chịu. Tau chỉ cảm thấy chứ có lý giải được chi mô mà nói chuyện truyền nghề. Mi về đúng ba tháng mười ngày cúng rượu ngon khấn “Độc huyền lão tổ” đi. Ôi mà con ơi! Ngộ hay không còn tuỳ căn cơ từng người.
- Mệ ni, đáo để thiệt đó nghe, tui không tin mô. Chuyện “mười voi không có chút nước xáo”.
- Cha mi! Không tin thì thôi, khỏi nói nhiều. Có phải vô duyên vô cớ mà ông bà ta hay nhắc nhở đám yêu quái “thập nữ viết vô” như bom nổ chậm trong nhà rằng: “làm thân con gái, chớ nghe đờn bầu”.
Thực ra cây đờn ấy có tội tình chi mô, nó chẳng có chi quá trội so với những “cậu cả” khác trong phường bát âm. Nhưng, mi nghe cho rõ, khi mà hắn gặp được cái thằng mô đáo để, biết lột cái áo vá, chạm đến cái vồn khoai, giàn mướp; sờ được cái hồn cốt, bùn đất ma trơi của nó, thì dù chỉ có cái vỏ bầu, que tre, cũng biết biến thành con yêu đầy phép thuật. Chúng khiến cho mấy mụ bất kể trẻ già lớn bé, thân phận cao quý cho đến lớp bách tính cùng đinh, dễ sút quần có bầu theo nó như chơi đó mi.
Mi có tin là tiếng đờn bầu có thể lén tháo dây lưng quần đám tơ liễu đa tình lúc nào không hay? Ôn mệ xưa nói đâu có ngoa!!!
- Tui lạy Mệ! Chuyện của Mệ sặc mùi khô nước xáo, không đủ mười voi thì cũng đến chín con...
- Chẳng giấu mi làm chi, với cái bộ dạng sang quý ngông nghênh mà ai cũng biết nó rỗng tuếch như tau, chẳng có chi ngoài mấy ngón bồi âm véo von như đâm thấu ruột gan người khác. Tau tự hào đã khuấy động được cái ma lực cuồng si núp trong cái vỏ bầu, khiến không ít thiếu phụ sang cả, quyền quý, các cô thiếu nữ kín cổng, cao thành, đa tình, cuốn gói theo tau vô điều kiện. Họ đi theo tiếng đàn của con quỷ già này mà không biết tương lai về mô, và sẵn sàng mài cái quần lãnh tía ngồi lên đầu dư luận xầm xì chuyện họ.
- Mệ hù tui à! Khúc gỗ, thanh tre, trái bầu, sợi tơ, mà Mệ làm như bí vật của mấy ông thầy pháp luyện bùa yêu không bằng.
- Mi tưởng tau dư thì giờ nói chuyện tầm phào chắc?
- Cái tính tào phào tộn phộn như Mệ thì chuyện chi mà chẳng cương tuồng lên được!
- Ông nội mi! Có ngậm cái miệng thúi lại được không?
Mệ lại nhắp thêm ngụm rượu, nét mặt trở nên nghiêm nghị, xa xăm... Bây giờ Mệ như quên mất cái thằng hóng chuyện trên trời dưới đất đang ngồi bên cạnh. Ông nhìn đăm đăm như xuyên thủng hàng cây trước mắt như muốn trải ký ức xa vắng của mình trên dòng sông xanh lăn tăn sóng nước xa kia. Ông lẩm bẩm như độc thoại:
- Đờn một sợi nhưng tiếng muôn sợi, tiếng một âm nhưng réo rắc muôn âm. Tầng vang vọng sau mỗi âm là cả thế giới của muôn vàn cung bậc cảm xúc. Chúng len lỏi tận ngõ ngách, đánh thức cái mới lạ chưa từng, hong ấm cái cũ lòng đau xé ruột, làm động đậy những nỗi niềm thèm muốn sâu kín trong vô tận của mình riêng.
Với mấy mụ đàn bà Huế có cung vàng điện ngọc, cửa Khổng sân Trình phủ chụp trên đầu, cái niềm riêng ấy càng được giấu kín, che đậy hết hơi, bởi những lớp lang rào chắn rất khắt khe của xã hội. Họ chất chồng ngăn khát vọng trong kiếp sống mỏi mòn, đang ngày càng ùn đống, dày hơn, cao lên và cứng lại. Chỉ cần đủ cơ duyên là chúng lớn dậy, phình to như ngọn hỏa diệm sơn, mở miệng phễu tuôn trào dung nham xác thịt lẫn tâm hồn nóng hổi.
Chính sự vang vọng của thanh âm réo rắt muôn ngàn cung bậc, từ cái ve vuốt cần đờn xuất thần của những cầm thủ tài hoa. Cái que tre mộc mạc sẽ xáo tung mọi thứ, gây nên những chấn động làm nứt gãy đỉnh khát vọng kia, và, mọi ẩn ức theo đó tuôn phụt ra, cháy đỏ rực, nuốt chửng chính quả núi đầy gai nhọn đã từng bao bọc, ngăn trở chúng.
Cây đờn bầu gần gũi với hồn Việt tộc, vì thế chẳng ai điên khùng mất công tranh cãi khi thằng khác đòi làm chủ nhân, bởi chúng từ uyên nguyên đã chất chứa, đồng lõa, đồng hành, đồng cảm... với nỗi niềm và trình tự của dân tộc này, bằng thanh âm thay ngôn ngữ thường tình.
Chiếc que tre khởi âm tưởng chừng như đơn độc khi người nghệ sĩ khẽ chạm trên dây. Chẳng qua, đó chỉ mới là tiếng đằng hắng trước một câu chuyện dài của nước non hồn Việt mà cây đờn muốn kể bằng thứ ngôn ngữ vang vọng lâm ly của chúng đến ngàn sau.
Nếu chiếc độc huyền cầm có lọt vào tai khách tri âm được chút nào đó qua những khúc hoan ca, thì chúng cũng chỉ đang gượng gạo cố sức kéo căng sở đoản của mình để tạo nên thanh âm phấn chấn lòng người. Trái tim của nó chỉ có thể lột tả đến tận cùng thanh âm thổn thức, lắng đọng, khóc cười theo nhân thế cùng vận nước nổi trôi.
Nghĩ lại quả không ngoa..., không ngoa chút nào!
Ui chao có hơi đâu mà nghe người ta chửi mình nói bậy.
Có dân tộc nào trên thế giới chịu cảnh lưu đày trên chính quê hương của mình cả ngàn năm? Những uất ức cứ thế dồn nén, kéo dài sự đắng cay chồng chất lên nhiều thế hệ. Tâm hồn dân mình cũng thế, những tiếng kêu xé ruột, những nỗi đau không chia sẻ được cùng ai, những nhẫn nhục đọa đày bởi bi kịch chia cắt của lịch sử và nhiều khuôn nếp cũ, luôn ẩn hiện trong những thang ngũ cung hơi Nam, buồn nhiều hơn vui.... Hơi Nam nghe như tiếng nỉ non của bà mẹ Việt thở dài trong đêm vắng. Nỗi vui trong những cung điệu Bắc, không phải không có lúc trong trẻo rộn ràng, nhưng, cũng chỉ như những đoản khúc thanh bình ngắn ngủi trong một chuỗi dài âu lo, nhẫn nhục.
Chính vì rứa, họ sẽ dễ tìm thấy niềm cảm thông tận cùng, khi nhạc cụ nào đó có sức vang vọng như gần, như xa, như thật, như mơ... Chúng cứ thổn tha thổn thức, khiến cho cảm xúc họ trào dâng; cứ như bắt gặp ai đó nhìn thấu ruột gan mình; cứ như ai đó hàng đêm rình họ trăn trở trong cô phòng, hay thấm khô dòng nước mắt cho phận bạc qua những khúc cung oán. Và rứa là họ đổ hô chính cái “thằng” đờn bầu là thủ phạm. Hắn chính là kẻ đã xé xiêm y của họ trần trụi trước bản năng, khêu gợi niềm đam mê, ẩn ức, sau bức màn che của lề thói.
Khà khà!!! Phụ nữ cuốn gói theo trai trong những lúc này, có thật đáng phải căm ghét khinh miệt và nghiến răng chửi cho được mụ cô thượng họ cái thói trắc nết lăng loàn??
Cay đắng và khó nghĩ thật!!!
Thằng bạn trẻ ngẩng đầu vịt không biết ông đang lẩm bẩm gì, khẽ khàng vỗ vỗ trên bàn tay Mệ:
- Mệ say rồi à? Thôi để tui rước Mệ về hí!
Câu chuyện không còn làm cho cậu trẻ hứng thú nữa, họ chia tay bằng một xác tín vu vơ:
- Nói thì nói rứa chớ tui tin Mệ chứ, rõ ràng ràng, chuyện phong lưu bất cần dư luận của Mệ làng trên xóm dưới ai mà chẳng biết, thiệt là...nói chi cũng không ngạ.
Mệ, bậc Ưng trong đế hệ thi chứ có vừa đâu, là thủ từ của một phủ quốc công lớn ở Thuận Hóa. Kẻ đã bất chấp những lời can gián đanh thép của phủ Tôn Nhơn, Mệ dứt áo phiêu du, giao lại toàn bộ cơ ngơi phụng thờ cho con trai bà thứ. Âu cũng chỉ vì Mệ nặng nợ với cây đờn bầu. Mệ rong ruổi không định hướng, nói giọng kẻ cả, coi trời như vung mà vẫn có rượu ngon, cơm sốt, canh ngọt. Mệ không thường xuyên hãnh diện vì có nhiều phụ nữ yêu chiều hầu hạ. Trái lại, Mệ còn hoạnh họe, chửi đổng khi bị họ làm phiền, bởi vẫn có lúc chàng nghệ sĩ già phóng đãng chỉ cần một mình với cây đờn. Ân sủng hay nghiệp chướng, có trời mới biết.
Mệ luôn cảm thấy hoan lạc với những thanh âm ma mị, tự nhìn vào bàn tay phù thủy của mình, rồi cười khinh mạn, như thử chỉ có riêng ta trong thế giới không ai thấu hiểu, không kẻ tri âm.
Mệ giã từ bá tánh lúc đã gần 90 tuổi, chập chờn trong căn lều vắng ở một trang trại rau củ ngoại ô Đà Lạt. Mệ chẳng biết vì sao mình lưu lạc đến đây, cũng chẳng biết mình đã bỏ lại đàng sau bao nhiêu đứa trẻ chưa được một lần được gọi Mệ là thân phụ. Mệ càng không biết mình đã rời xa biết bao khuôn mặt phụ nữ đẹp, danh giá một thời, sẵn sàng vì Mệ, đắm đuối theo Mệ, hay theo sợi dây, chiếc vỏ bầu khô với cọng que tre, cái thứ mà tìm nơi đâu cũng có.
Khi tay Mệ đã run, khi khí lực đã tàn, khi những âm thanh văng vẳng sau mỗi tiếng que khảy trên dây tơ đã xa vắng những nỗi niềm sâu kín... Trong tình cảnh âm u của bóng tối một đời người, chỉ còn lại bên thân xác gầy còm ấy mỗi một người phụ nữ trẻ hơn mệ gần nửa thế kỷ. Khuôn mặt bà chất phác quê mùa, không hề và không biết đàn hát, không ngợi ca hay hâm mộ, dù chỉ là một tiếng tặc lưỡi đẫm chút vị ngọt, thay lời cảm thán tiếng đàn của Mệ. Nhưng, trước khi trút hơi thở cuối cùng, Mệ nhận ra mình vẫn có thể thanh thản, yên lành nhắm mắt vì trên đời này còn có kẻ “tri âm”.
Dường như ai đó vẫn nhận ra dư vị của một tách trà ngon, cho dù nó đã nhạt gần như nước lã.
Trong ký ức của Mệ lúc này, tiếng khen ngợi, lời tán dương, hâm mộ, ánh mắt đắm say, khâm phục... tất cả dường như đã lùi dần và lịm tắt như những ảo ảnh chìm nghỉm trong bánh xe thời gian.
Có phải kẻ duy nhất đứng ngoài đám đông ấy chính là người đàn bà cuối cùng một đời cạnh Mệ không đòi hỏi một điều gì, người đã lo cho Mệ từng bữa ăn giấc ngủ, lòng vẫn luôn ấm áp với những ngày tháng, khi mà tiếng đàn của Mệ đã hụt hơi, và không còn ma quái như xưa kia.
Có phải đó là con người đang ngơ ngác, mắt đẫm lệ nhìn Mệ và trên tay vẫn còn chén nước cháo, cho dù bà biết rằng Mệ không còn nuốt được nữa.