“Nếu ai đó đặt bàn tay mình vào lửa, điều gì sẽ xảy ra? Bàn tay sẽ bị phỏng. Đó có phải là lỗi của lửa không? Không. Bản tánh tự nhiên của lửa là đốt cháy, và sân giận với lửa không có ích lợi gì. Sai lầm nằm ở nơi người đặt tay vào lửa.” - Đại Bồ tát Tịch Thiên (Shantideva)
Do đó, nếu chúng ta, những người thực hành Pháp, tiếp xúc với những người bình thường chưa giác ngộ trong sinh tử, những người có những tính cách tiêu cực, chúng ta cần phải hiểu rằng đó là cách mà mọi thứ trong sinh tử vận hành. Chúng ta cần có khả năng nhận biết rằng đó là cách mọi sự là và thấy rằng những tính cách ấy hiện hữu, nhưng không bám vào tư tưởng rằng bản thân chúng ta bị hãm hại hoặc rằng những người khác đang cố gắng chống đối ta. Bất cứ sự bực bội nào mà lấy bản ngã làm trung tâm đang diễn ra trong chúng ta thì đều không phải là lỗi của họ mà của chính chúng ta. Chúng ta phải tu tập nhẫn này.
HỌC TRÒ: Cái gì là sự khác biệt giữa định trong kinh này và tập trung thiền định sâu xa mà bản văn “Phân biệt những pháp và Pháp tánh” của Đức Di Lặc Maitreya đề cập đến như một chướng ngại cho việc đạt được Phật tánh là gì?
RINPOCHE: Trạng thái tập trung của tâm như một chướng ngại cho sự toàn giác của trí huệ, là thiền định trụ vào ý niệm “Tôi đang thiền định! Đó là đối tượng thiền định của tôi!” Có cái gì được giữ trong tâm và một cái tôi đang giữ nó trong tâm; thế nên, đó là một trạng thái thiền định được xây dựng bởi những ý niệm. So sánh với trạng thái tâm của một người bình thường thì thiền định này là rất tốt, nhưng nó lại che ám trong nghĩa ngăn chặn chứng ngộ bản tánh tối hậu của những sự vật. Mục tiêu căn bản trong Kinh Vua của Định và giáo huấn chỉ thẳng của Đại Ấn (Mahamudra) là chỉ thẳng thể trạng thật để chúng ta có thể nhận biết nó. Những giáo huấn này không hề thuộc loại thiền định do tâm tạo ra. Loại thiền định theo khái niệm này là một kinh nghiệm rất hữu hình, có vẻ “sâu xa” trong nghĩa chúng ta nghĩ cái chúng ta đang giữ trong tâm là tánh Không của mọi sự. Chẳng hạn, khi nhìn cái bàn này, chúng ta nghĩ “Cái bàn này thực sự là gì? Nó không có tự tánh nào. Đó là tánh Không và tôi có thể hiểu nó. Đây là cách nó thực sự là! Nó là tánh Không!” Bấy giờ chúng ta giữ khái niệm này trong tâm. Loại tập trung này, khi so sánh với trạng thái tâm của người bình thường thì rất sâu và quan trọng. Nhưng đối với trạng thái định của Kinh Vua của Định, cũng như với những giáo huấn chỉ thẳng của Đại Ấn, tập trung theo khái niệm như vậy là một chướng ngại. Trong Đại Ấn và cả Kinh Vua của Định, cái được tu hành như là định của cái thấy không phải là một tạo dựng khái niệm mà chúng ta đã pha chế và giữ trong tâm. Đó là việc nhìn vào bản tánh của tâm và thấy nó như nó là, rồi chỉ để cho nó hiện hữu tự nhiên. Chúng ta ở yên tự nhiên trong đó thay vì tạo dựng một số trạng thái giả tạo bằng suy nghĩ và giữ nó trong tâm. Nhìn theo cách này, bất cứ tạo dựng trí thức nào cũng là một chướng ngại cho trí huệ toàn giác.
HỌC TRÒ: Khi ngài nói định (samadhi), nó có giống như trạng thái thiền định thực sự?
RINPOCHE: Vâng, chúng ta có thể nói như thế. Trong tiếng Tây Tạng, ryamshag, từ dùng để diễn tả trạng thái thiền định có nghĩa đen là “Nghỉ ngơi trong trạng thái xả”. Truyền thống của những giáo huấn cốt lõi vạch ra hai cách lạc khỏi trạng thái xả: một được gọi là “lạc vào tinh túy bất động” và cái kia là “lạc vào sự khái quát tánh Không”. Khái quát tánh Không nghĩa là trùm phủ ý niệm tánh Không lên khái niệm của chúng ta về thực tại, giữ trong tâm ý niệm rằng mọi sự vật cụ thể là trống không. Đây là một tạo dựng giả tạo làm che ám trạng thái định.
HỌC TRÒ: Ngu độn hay vô minh thì vi tế hơn sân hay tham. Thế nên phương thuốc áp dụng cũng phải vi tế. Vô minh có phải là cái chúng ta kinh nghiệm như trạng thái bình thường của tâm? Nó có phải là tấm màn tự nhiên mà chúng ta phải làm tan biến hay nhìn thấu qua?
RINPOCHE: Chúng ta đã nói ngu độn hay vô minh có thể là trộn lẫn hay không trộn lẫn. Vô minh không trộn lẫn là không hiểu, hiểu sai, hay cảm thấy nghi ngờ. Nhưng khi chúng ta nhìn vào cái không hiểu, hiểu sai hay cảm thấy nghi ngờ, chúng ta không tìm thấy thực thể nào cả. Vào giây phút khám phá sự không có thực thể này, trạng thái ngu độn và vô minh không còn nữa. Thay vào đó, một sáng tỏ sống động hiện diện. Cái tỉnh thức sống động ấy vượt khỏi ngu độn và ngu tối.
HỌC TRÒ: Đôi khi bản tánh của tâm được thấy trong một thoáng chốc, như một le lói của sự thấy biết. Đâu là sự liên quan giữa khoảnh khắc ấy với tinh túy của giác ngộ?
RINPOCHE: Theo Uttara Tantra (Luận Phật tánh), trạng thái thức tỉnh, tinh túy của giác ngộ, là chứng ngộ hoàn toàn bản tánh vốn có của những sự vật - Pháp tánh. Thí dụ được dùng ở đây là so sánh với một đứa bé mới sinh nằm trong một căn phòng. Mặt trời chiếu sáng bên ngoài và vài tia sáng lọt qua cửa sổ. Đứa bé thấy tia sáng mặt trời, nhưng không thể bước ra ngoài và thấy mặt trời thực sự. Khi lớn lên và có thể ra ngoài, nó sẽ thấy mặt trời. Có liên hệ nào giữa ánh sáng mặt trời mà đứa bé thấy với mặt trời thật? Hẳn là có, nhưng để thấy mặt trời thật thì phải chờ đi ra ngoài khi lớn lên. Theo cùng cách, một thoáng thấy của sự thấy biết, một chớp sáng của nội quán mà bạn nói thì cũng giống như tia sáng mặt trời chiếu qua cửa sổ. Có một liên hệ chắc chắn giữa cái này và trạng thái giác ngộ, nhưng không phải là bản thân trạng thái giác ngộ. Chúng ta cần kiên trì tu hành thiền định để chứng ngộ đầy đủ trạng thái này, thế nên hãy thực hành!
HỌC TRÒ: Liệu người ta có thể đạt được định thông qua thiền định hay thiền tuệ, hay đây chỉ là các kỹ thuật để đưa bạn đến điểm mà bạn cuối cùng có thể đạt được định?
RINPOCHE: Đó là vấn đề cá nhân phụ thuộc vào mức độ siêng năng tinh tấn của mỗi người. Một số người thực hành và tu tập shamatha (chỉ/định) và vipashyana (quán/huệ) và chứng ngộ trạng thái định. Những người khác, những người hơi lười biếng và không dấn thân trọn vẹn thì không. Tuy nhiên, trong tương lai, bất kỳ sự tu tập nào mà chúng ta đã thực hiện sẽ vận hành như một sự hỗ trợ cho sự chứng ngộ. Phần sau trong kinh này, cả shamatha (chỉ/định) và vipashyana (quán/huệ) sẽ được mô tả rõ ràng. Thông qua những thực hành này, chúng ta có nhận ra trạng thái định hay không phụ thuộc vào chính chúng ta.
TRÍCH ĐOẠN TRONG SÁCH