khuôn mặt của giác ngộ
Tu Bồ Đề bạch Phật rằng: Bạch Thế Tôn, Phật đắc Vô thượng Chánh giác là không có chỗ đắc, có phải thế không?
Phật bảo: Đúng như vậy, đúng như vậy. Tu Bồ Đề! Ta đối với Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác thậm chí không có một chút pháp có thể đắc, đó gọi là Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác.
Lại nữa, Tu Bồ Đề! Pháp ấy bình đẳng, không có cao thấp, đó gọi là Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác. Vì không có ngã, không có nhân, không có chúng sanh, không có thọ giả mà tu tất cả pháp thiện tức đắc Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác.
Tu Bồ Đề! Nói rằng pháp thiện ấy, Như Lai nói chẳng phải pháp thiện.
Giác ngộ Vô thượng không có chút gì chủ thể khách thể, cho nên không có tướng gì để lấy hay bỏ, thêm hay bớt, cho nên nói “không có một chút pháp có thể đắc”. Ban sơ cũng là Nó, bây giờ cũng là Nó, mai sau cũng là Nó. Có cái gì ở ngoài nó đâu để gọi là đắc? Nó có bao giờ thiếu hụt cái gì đâu để gọi là tu hành và chứng đắc?
Vô sở đắc, không có chỗ đắc, vì cái gì cũng là Nó, chưa từng có cái gì không là Nó, từ xưa đến nay và mãi mãi như vậy.
Đó là cái bình đẳng suốt ba thời, bình đẳng khắp cả mười phương. Không có khoảnh khắc nào kém sút, không có vi trần nào thiếu hụt, cho nên nói là “không có cao thấp”, vì nó là bản tánh của tất cả mọi sự. Thế nên bất cứ khoảnh khắc nào, bất cứ không gian nào chúng ta cũng có thể gặp gỡ Nó, làm quen với Nó cho đến khi thân thuộc và là một với Nó. Thủy giác và Bản giác hợp nhất.
Nó thì bình đẳng, “không có ngã, không có nhân, không có chúng sanh, không có thọ giả”, nên để tương ưng được với Nó, chúng ta cũng phải “không có ngã, không có nhân, không có chúng sanh, không có thọ giả”. Còn nếu không, chúng ta cứ tiếp tục chống trái Nó từ đời này sang đời khác. Nó thì vô lượng công đức, cho nên để tương ưng được với Nó, chúng ta cũng phải “thực hành tất cả pháp thiện”. Còn nếu không, chúng ta cứ tiếp tục làm chàng cùng tử lang thang.
Con đường Phật đạo, từ giai đoạn đầu, Tư Lương vị, là tích tập trí huệ và tích tập công đức. Cho đến Giác ngộ vô thượng thì sự tích tập trí huệ và tích tập công đức này viên mãn. Không có ngã, nhân, chúng sanh, thọ giả, đó là tích tập trí huệ. Thực hành tất cả pháp thiện, đó là tích tập công đức.
Có điều, đây là Quả thừa, không phải chúng ta tạo ra trí huệ và công đức. Tất cả đã sẵn có từ sơ thủy. Sắc nào cũng là Không, nên sắc nào cũng đầy đủ công đức, chẳng cần sửa sang, thêm bớt gì. Chúng ta chỉ việc tương ưng với những cái đã có sẵn ấy thôi. Tu hành là tương ưng với Nó, thấy Nó, làm quen hay tham thiền về Nó, và hoạt động như là Nó đang biểu lộ. Nó là bản tánh của tâm thức chúng ta và của tất cả hiện hữu.
phước đức và công đức
Tu Bồ Đề! Nếu có Bồ tát đem bảy báu đầy cả các thế giới nhiều như số cát sông Hằng dùng để bố thí, nếu lại có người biết tất cả pháp là vô ngã, được thành tựu Nhẫn, thì công đức Bồ tát này hơn Bồ tát trước. Vì sao thế? Vì những Bồ tát ấy chẳng thọ phước đức.
Tu Bồ Đề bạch Phật rằng: Bạch Thế Tôn! Thế nào là Bồ tát không thọ phước đức?
Tu Bồ Đề! Bồ tát tạo phước đức mà chẳng tham vướng phước đức, cho nên nói là chẳng thọ phước đức.
Bố thí thì tạo ra phước đức. Phước đức thì dù có lớn lao bao nhiêu cũng vẫn nằm trong ba cõi, vì phước đức đó có nhân là những vật hữu vi thì quả cũng là quả hữu vi. Còn bố thí mà ở trong tánh Không, nghĩa là Vô tướng, Vô niệm, và Vô trụ, thì đó không còn là phước đức mà là công đức. Bố thí ấy đồng đẳng với tánh Không.
Tạo ra phước đức mà “chẳng thọ”, vì biết người tạo ra là vô ngã, vô tự tánh và cái được tạo ra là vô ngã vô tự tánh. Biết được và chịu đựng được cái biết khó chịu đựng này gọi là Nhẫn. Nhẫn cho đến chứng ngộ được các pháp chẳng từng sanh ra, gọi là Vô sanh pháp nhẫn. Đến đây mới hết bốn tướng ngã, nhân, chúng sanh, thọ giả.
Chẳng thọ đích thực là vì biết tất cả các pháp chưa từng sanh. Bồ tát ở địa thứ tám Vô sanh pháp nhẫn này mới hoàn toàn thoát khỏi sự sanh ra của các tướng và các tưởng, nghĩa là hoàn toàn thoát khỏi sanh tử.
thế giới là một hợp tướng
Tu Bồ Đề! Nếu có người thiện nam, đem tam thiên đại thiên thế giới này nghiền thành bụi nhỏ, ý ông nghĩ sao, số bụi nhỏ ấy có nhiều không?
Tu Bồ Đề thưa: Bạch Thế Tôn, rất nhiều. Vì sao thế? Nếu những bụi nhỏ ấy thật có, Phật ắt chẳng nói là những bụi nhỏ. Tại sao như thế? Phật nói những bụi nhỏ tức chẳng phải bụi nhỏ, đó gọi là những bụi nhỏ. Bạch Thế Tôn! Như Lai nói tam thiên đại thiên thế giới tức chẳng phải thế giới, đó gọi là thế giới. Vì sao thế? Nếu thế giới thật có thì ắt là một hợp tướng. Như Lai nói một hợp tướng tức chẳng phải một hợp tướng, đó gọi là một hợp tướng.
Tu Bồ Đề! Một hợp tướng đó tức là chẳng thể nói, chỉ do người phàm phu tham bám sự ấy.
Cái mà chúng ta gọi là thế giới chỉ là những hạt bụi nhỏ hợp thành. Những hạt bụi nhỏ ấy ngày nay chúng ta gọi là những nguyên tử và những hạt nhỏ hơn cấu thành một nguyên tử.
Đức Phật nói “những hạt bụi nhỏ ấy không thật có”. Khoa học ngày nay cũng cho ta biết nguyên tử gần như trống không, vì giữa nhân của nguyên tử và các hạt electron chạy chung quanh với tốc độ gần bằng tốc độ ánh sáng, khoảng cách ấy rất lớn. Có thể lấy thí dụ trong một khoảng không gian rộng bằng sân bóng đá, thì nhân là trái bóng đá nằm ở giữa và các hạt electron là những trái chanh chạy vòng ở rìa sân.
Nguyên tử thì vô thường, vì vận tốc của các hạt quá nhanh phải tính theo tốc độ ánh sáng làm căn bản, và có những hạt chỉ “sống” có vài phần triệu giây. Nó cũng vô ngã vì thay đổi nhanh chóng, dễ dàng kết hợp với những nguyên tử khác để thành ra những nguyên tử mới. Những nguyên tử không màu sắc, không mùi hương... nhưng hệ thống thần kinh loài người lại diễn dịch thành một thế giới đầy đủ sự vật, sắc, thanh, hương, vị, xúc, pháp của riêng loài người.
Với những kiến thức thông thường của khoa học hiện đại như trên cũng cho chúng ta hiểu khái quát tại sao Đức Phật nói “những hạt bụi nhỏ là không thật có, thế giới là không thật có”.
Không thật có, giả hợp, như huyễn là một mặt trong ba mặt của tánh Không được nói trong kinh này.
Thế giới là một hợp tướng của những cái Không, Vô thường, Vô ngã. Thế mà chúng ta, vì vô minh, cứ cho đó là những cái có, thường còn, có ngã, có tự tánh. Hợp tướng thế giới ấy không cứng đặc, không bất động, rỗng không, không có bản chất, sanh diệt trong từng khoảnh khắc. Cái tâm thức nhìn thấy hợp tướng thế giới ấy, bốn tướng ngã, nhân, chúng sanh, thọ giả cũng sanh diệt trong từng khoảnh khắc, không có một trung tâm, một bản chất riêng nào cả.
Với trí huệ Bát nhã thấy được như vậy thì mới giải tan được cái ảo tưởng về hợp tướng sanh tử và do đó giải thoát khỏi sanh tử hư vọng.
Một hợp tướng đó chẳng thể nói vì không thật có, chưa từng có. Hợp tướng đó như những bông hoa trên hư không, như mình và cảnh vật thấy trong giấc mộng, như ảo ảnh thấy sóng nắng trên đất cằn khô mà tưởng là nước... Tất cả là do tham bám, khao khát, thương ghét của người thường chúng ta mà có ra các sự ấy.
Trí huệ Bát nhã là thấy được vô ngã và vô pháp, và do đó giải thoát khỏi tất cả những gì gọi là ngã và pháp do tham bám sanh ra, nghĩa là giải thoát khỏi tất cả sanh tử.