Như chúng ta đang thấy, ở trái đất này có ba tầng chính: vật chất không có sự sống, động vật và con người. Nếu chỉ tính từ động vật thì có hai tầng: động vật và con người. Những nền văn hóa và văn minh đều do ý thức của con người tạo nên. Hiện nay, nhìn bất cứ ở đâu, bất cứ vật gì, cũng đều là kết quả của ý thức con người dựa vào thiên nhiên (vật chất có sự sống và vật chất không có sự sống) mà tạo thành, sáng tạo ra.
Con người và động vật chia sẻ với nhau một đời sống giác quan để sống trong thế giới hay trái đất này: mắt để thấy, tai để nghe, mũi để ngửi, lưỡi để nếm, thân để xúc chạm. Khả năng của năm giác quan mạnh yếu khác nhau ở từng loài, nhưng đều giúp nhận biết thế giới và sống trong thế giới. Đời sống giác quan là thấp nhất và giới hạn nhất. Quy chiếu theo tám thức của Duy thức học Phật giáo, năm giác quan là năm thức trước (tiền ngũ thức). Tầm hoạt động của chúng hoàn toàn nằm trong thế giới vật chất. Chính vì vậy, nếu so với thức thứ sáu là ý thức của con người thì năm giác quan bị giới hạn hoạt động hơn.
Tầng thứ hai là ý thức, đây cũng là từ mà Duy thức học dùng để chỉ thức thứ sáu. Con người vượt hơn con vật là ở ý thức. Nói theo quan niệm hiện đại, ý thức bao gồm trí thông minh và trí tuệ cảm xúc. Nhờ ý thức mà con người làm chủ trái đất, tạo ra những nền văn hóa và văn minh. Phạm vi hoạt động của ý thức so với năm thức giác quan thì rộng sâu hơn rất nhiều. Ý thức càng mở rộng thì không gian thời gian được thu hẹp lại. Chẳng hạn với năm thức giác quan chúng ta không thể gặp Socrates và Khổng Tử, nhưng với ý thức, chúng ta có thể gặp được các vị qua tư tưởng của họ.
Ý thức là giới hạn vì nó không thể giải quyết được nỗi khổ đau tiềm ẩn trong chúng ta, không thể hợp nhất, thống nhất được đời sống đã bị phân mảnh quá lâu của chúng ta. Ý thức là giới hạn vì nó không thể hòa giải, nối kết mỗi chúng ta với người khác, với sự vật, với thế giới, với vũ trụ. Ý thức là giới hạn vì nó không thể giải quyết cho chúng ta vấn đề căn bản của con người: sinh ra để rồi chết, làm sao vượt khỏi cái chết, nếu không thì cuộc sống này chẳng có ý nghĩa là bao.
Nhưng con người không chỉ có ý thức. Ai trong chúng ta cũng nhận thấy mình có một cảm nhận về một cái tôi, một cảm thức về cái tôi, mà Duy thức học gọi là thức chấp ngã, thức Mạt-na. Thức chấp ngã này gồm ngã kiến, ngã ái, ngã si, ngã mạn, là thức thứ bảy. Nó ở cao hơn ý thức, khó thấy hơn ý thức, và chỉ huy, cai trị ý thức. Có một hành động nào, một lời nói nào, một ý nghĩ nào mà không phải nằm trong “tôi và của tôi”. Toàn bộ thân, khẩu, ý của một con người, toàn bộ đời sống của một con người đều được bao trùm trong thức chấp ngã này.
Con người, với ý thức và thức chấp ngã giới hạn, vẫn chưa tìm thấy tự do và hạnh phúc của sự không bị tùy thuộc. Vậy thì có cái gì vượt lên hai thức thứ sáu và thứ bảy này để cho con người được giải phóng? Con người có thể tiến hóa lên tầng nữa không? Có tầng thứ ba là lãnh vực tôn giáo, nơi được gọi là những kinh nghiệm tâm linh, vượt khỏi ý thức và thức chấp ngã. Dù rằng tôn giáo cũng có rộng hẹp, cao thấp, hoàn hảo hay chưa hoàn hảo khác nhau, nhưng nói chung, tôn giáo là sự tiếp cận với thực tại tối hậu, và ngay trong một tôn giáo, thực tại này cũng được gọi bằng những danh từ khác nhau.
Trong hệ thống Duy thức, tầng thứ ba này là thức thứ tám, thức A-lại-da, Tạng thức, nơi chứa toàn bộ các thức trước và nơi đó cũng có cái mục đích rốt ráo của con người, nhu cầu tối hậu của con người. Tâm lý học chiều sâu gọi tầng thứ ba này là tiềm thức, vô thức, theo nghĩa chưa được biết đến; nhưng tiềm thức, vô thức chỉ là một phần nhỏ so với tạng thức A-lại-da. Theo kinh Lăng già, tạng thức A-lại-da chính là Như Lai tạng hay Phật tánh, có điều còn bị nhiễm ô bởi những kinh nghiệm của bảy thức trước.
Chúng ta có thể hình dung con người với ba tầng là một hình khối nón úp ngược. Tầng dưới cùng nhỏ nhất là tầng giác quan cảm giác. Tầng giữa là tầng ý thức và cái tôi. Tầng tâm linh trên cùng lớn nhất, không có đáy, tiếp xúc với không gian bao la vô tận, thực tại bao la vô tận.
“Con người luôn luôn tìm kiếm một cái gì vượt khỏi sự hữu hạn, mong manh của cuộc sống. Nói theo Tây phương, “Tôi là ai, là cái gì? Tôi từ đâu đến và rồi sẽ đi đâu?”. Con người luôn luôn có nỗi hoài nhớ quê nhà Hữu thể (Nostalgie de l’Être). Phật giáo và Thiên Chúa giáo đều có câu chuyện anh cùng khổ lưu lạc trở về nhà người cha giàu có vô lượng của mình. Cuộc đời người là sự trở về với quê nhà đã thất lạc, và sự khổ đau căn bản của con người là đang tha hương nơi chẳng phải là quê nhà vĩnh cửu của nó. Các nhà thơ, các nhạc sĩ, các nhà làm nghệ thuật… đều cho mình là trích tiên, tiên bị đọa xuống trần, cõi này chỉ là cõi tạm, trên con đường tìm đến Chân, Thiện, Mỹ tuyệt đối:
“Tâm tình một nẻo quê chung
Đường về cố quận muôn trùng ta đi”
(Bùi Giáng)
“Quan sát trong cuộc sống, rất nhiều người chỉ lo tập thể dục cho thân mà ít ai để ý đến việc rèn luyện, “tập thể dục” cho tâm. Trong lúc đó chúng ta luôn sống với tâm (kể cả khi ngủ, và khi thân thể này chết đi, nếu chúng ta tin vào sự tái sinh), thế nhưng tại sao chúng ta lại không dành thì giờ để tập luyện, làm cho nó lành mạnh? Tại sao chúng ta không “nâng cấp” chất lượng sống bằng cách “nâng cấp” chất lượng của tâm, nghĩa là đánh thức sự linh hoạt sống động của nó, không để nó bị “hóa thạch” trong những ý niệm và thành kiến khô cằn, không bị méo mó, tàn tật và tê liệt trong những thói quen cố chấp, trong sự loạn thần, với những hao phí mất năng lượng của tâm.
Chất lượng của đời sống chính là chất lượng của tâm. Tâm càng rộng và sâu đến mực “tối hậu” thì nó càng đến gần kinh nghiệm tối hậu. Kinh nghiệm tối hậu là kinh nghiệm về “thật tướng của tất cả các pháp” (Theo Kinh Pháp Hoa, có nghĩa là thật tướng của tất cả hiện tượng, thật tướng của đời sống), nó cũng có nghĩa là sự thỏa nguyện tối hậu, an vui tối hậu.
Cái học, hay con đường Phật giáo là sự chuyển hóa con người đến mức cao nhất mà con người có thể mơ tưởng được. Con người luôn luôn cảm thấy bứt rứt, bồn chồn, không bình an, luôn luôn bị giới hạn bởi chính tâm thức hạn hẹp và đầy vọng động của mình, không bằng lòng, tự xung đột và xung đột với người khác, luôn luôn mơ đến một cái gì vĩnh cửu, không chết, dù cái ấy không có “tôi” trong ấy đi nữa. Sự che đậy nỗi trống rỗng bất an bất toàn dù bằng cái gì đi nữa - giàu có, thế lực, kiến thức, khoa học, nghệ thuật... - đều vô hiệu”.
“Nhìn hết một đời người, khi mới sinh ra chúng ta là một đứa bé chưa biết mình là gì, cái trước mặt mình là gì. Đây là một cái vô ngã sơ khai. Lớn lên, tích tập nhiều kinh nghiệm, hiểu biết nhưng cũng đồng thời tích tập một cái ngã càng lúc càng thô cứng, tiến hóa cho đến lúc cái ngã bảo vệ số phận làm người trở thành vật chướng ngại, là nỗi khổ đau. Cần tiến hóa thêm một giai đoạn nữa, phá vỡ cái ngã để mở thoát. Lúc này là một cái vô ngã nhưng vẫn có ý thức và đầy đủ kinh nghiệm, chỉ có điều không chấp là ta và của ta nữa. Lúc này, cái ngã vẫn có đó nhưng chỉ là một chân lý quy ước, tương đối, còn vô ngã là chân lý tuyệt đối, tối hậu. Có thể xem đây là một quá trình biện chứng: từ cái vô ngã sơ khai vô ý thức đến cái ngã có ý thức phân biệt, rồi cái ngã này được cái vô ngã mở thoát và tiêu dung để có một cái vừa là cái ngã quy ước vừa là cái vô ngã tuyệt đối. Đó cũng là quá trình biện chứng đi từ cái hữu hạn khổ đau đến cái vô hạn và an lạc. Để chấm dứt đoạn này, chúng ta trích một thiền ngữ: “Ba mươi năm trước, khi chưa tu, thấy sông là sông, thấy núi là núi; khi đang tu, thấy sông không là sông, thấy núi không là núi và bây giờ tu xong, thấy sông vẫn là sông, thấy núi vẫn là núi”.
“Thấy một cái gì, nghe một cái gì, nghĩ một điều gì… cái ta tức khắc nhảy vào, gom mọi sự về nó, cho chỉ mình nó thôi. Con người bình thường chúng ta bị nhốt vào, bị giam cầm trong sự thống trị tuyệt đối của cái ta rất nhỏ hẹp nhưng nó tự cho nó là tất cả vũ trụ. Người khác và thế giới không còn hiện hữu; nếu hiện hữu là hiện hữu qua sự nhuộm màu của cái ta.
Bị giam cầm, ở tù chung thân trong cái ta ấy, chúng ta có khổ đau, mà cô đơn là một thành phần. Đó là tình cảnh con người, qua những nhân vật vô danh của Kafka, qua Roquentin trong Buồn Nôn (La Nausée) của J.P. Sartre, qua Meursault trong Người Xa Lạ (L’Etranger) của Albert Camus, và qua những nhân vật phân mảnh của văn học hậu hiện đại.
Cái ta của chúng ta chỉ là một phần của cuộc sống chúng ta, một phương tiện của đời sống thực sự bao la của chúng ta. Chẳng có ai cho rằng một móng tay mình là tất cả vũ trụ, rồi cả đời ôm ấp hôn hít nó, thậm chí vì nó mà làm điều ác, họa chăng chỉ có trẻ nít hoặc người điên. Người trưởng thành về tinh thần, về tâm linh thì không làm thế. Họ vẫn có cái ta, sử dụng cái ta như một phần cuộc sống của họ ở đời, nhưng cái ta đó chỉ là một hạt cát trong số cát sông Hằng là tất cả chúng sanh không thể đếm hết mà thôi.
Ở một mức độ cao hơn của nhận thức con người, nếu hoàn toàn chấp vào cái ta thì cái ta đó là kẻ thủ ác. Và ngược lại, cái thiện là sự nới lỏng, sự giải phóng khỏi cái ta. Cái thiện là sự thoát khỏi xiềng xích của cái ta và đặt cái ta vào đúng vị trí của nó: một bọt biển trong đại dương chứ chẳng phải là tất cả đại dương. Và như đã nói ở trên, cái thiện là hạnh phúc thì không cái thiện nào bằng, không hạnh phúc nào bằng sự giải phóng khỏi cái ta: như Tôn Ngộ Không bay vọt lên trời cao tự do khi đã thoát khỏi sự đè nặng của năm quả núi ngũ uẩn chịu đựng từ bao kiếp đến nay.
Từ đó chúng ta có cái thiện thật sự và hạnh phúc thật sự. Dĩ nhiên, nếu ai không có hạnh phúc thì không thể cho người khác hạnh phúc.”
“Chính cái thấy về người khác và thế giới sẽ quyết định cách ứng xử của chúng ta đối với người khác và thế giới, và điều này cũng quyết định cuộc đời chúng ta là hạnh phúc hay khổ đau. Cái thấy của Phật giáo không chỉ là một quan điểm, một cách nhìn của ý thức mà là chánh kiến, cái đầu tiên và cũng là chỗ đến cuối cùng của con đường Tám Chánh Đạo, nghĩa là nó phải dựa vào bảy cái kia để thành tựu. Tóm tắt, cái thấy là một sự thực hành, khởi đầu và kết thúc của sự thực hành đó.
Làm người, chúng ta chia sẻ với nhau một số phận con người. Đó là một số phận căn bản: bắt đầu bằng sự sinh ra và kết thúc bằng cái chết. Dù cuộc đời mỗi người có khác biệt nhau đến mấy - sự khác biệt do những hành động tốt xấu trong những kiếp trước và kiếp này tạo thành kết quả hôm nay, nhân nào quả nấy, đó là sự công bình, bình đẳng của luật nhân quả - chúng ta đều chia sẻ với nhau một điều căn bản: sống và chết”.
Giờ đây, một mùa Xuân nữa lại về, đó cũng chỉ là một mùa Xuân “tầm thường” như những mùa Xuân khác. Có khác chăng là Xuân Đinh Hợi thay vì Xuân Bính Tuất, có khác chăng là mỗi năm chúng ta thêm già đi một tuổi, mỗi năm xã hội lại bỏ bớt đi một ít lễ nghi, tập tục mà rồi chẳng còn mấy ai nhìn thấy sự diệu kỳ của chúng. Nhưng nếu chúng ta biết tỉnh thức lắng nghe những phẩm chất tốt đẹp đang biểu hiện từ trong lòng ra thành những tiết điệu của văn hóa và văn minh, và hơn nữa, nếu chúng ta được hướng dẫn rồi tự mình giữ gìn, nuôi dưỡng, khai triển, phát huy trong suốt cuộc sống của mình, chúng ta sẽ biết được ý nghĩa của đời sống là gì, và chắc chắn, rằng chính vì ý nghĩa đích thực đó mà chúng ta đã có mặt ở cõi đời này. Chúng ta sẽ sống được một mùa Xuân vĩnh cửu, một mùa Xuân “không nở không tàn, không bao giờ tận”, tất cả không gian và thời gian đều là xuân, “chỉ là xuân”; chúng ta sẽ biến toàn bộ đời sống thành một mùa Xuân, mỗi khoảnh khắc là một mùa Xuân, như Thiền sư Chân Không (1046 – 1100) đã từng nói:
“Xuân đến xuân đi nghi xuân tận
Hoa tàn hoa nở chỉ là xuân.”