ĐỌC THỬ

ĐẶT MUA SÁCH

Đương Đạo Nguyễn Thế Đăng là một nhà sư, thuộc thế hệ thứ ba của chùa Tây Tạng ở Bình Dương. Nhiều năm qua, tác giả Nguyễn Thế Đăng đã viết hàng trăm bài đăng trên Văn Hóa Phật Giáo. Tuần san và Nguyệt san Giác Ngộ cũng đã đăng hàng chục bài của tác giả, chưa kể các báo điện tử như giacngo.vn, thuvienhoasen, phattuvietnam.net, vanhoaphatgiaoblog.com, sangdaotrongdoi.vn… mỗi báo cũng đã đăng hàng chục bài.
Tổ khai sơn chùa Tây Tạng ở Bình Dương là Thiền sư Nhẫn Tế (1888 – 1951). Tổ vốn thuộc dòng Lâm Tế đời thứ 40, từng sang Ấn Độ, Nepal và Tây Tạng tham bái và tu học. Tổ đã cầu đạo ở Tây Tạng, đắc pháp và được ban cho pháp danh Thubten Osel bởi những vị cao cấp của dòng Mũ Vàng (Gelugpa). Sau hơn một năm ở Tây Tạng, Tổ được phép trở về Việt Nam để lập chùa Tây Tạng, Bình Dương.

📒 Tác phẩm tiêu biểu:
  • 10 Tư tưởng Pháp Hoa trong đời sống hằng ngày (2024)
  • Tâm linh như là sự tiến hóa tất yếu của con người (2024)
  • Mở đôi mắt Kim Cương (2023)
  • Hiện tại vĩnh cửu (2023)
  • Vũ trụ trong hạt bụi (2022)
  • Bài ca của tự do và niềm vui (2022)
  • Thực hành theo Luận Đại thừa Khởi Tín (2021)
  • Thiền tông bản hạnh (2020)
  • Chú giảng Cư trần lạc đạo phú (2019)
  • Kinh Nhập Lăng Già – dịch và giảng (2016)
  • Lục Tổ Pháp Bảo Đàn Kinh giảng giải (2016)
  • Kinh Lăng Nghiêm hành giải (2016)
  • Kinh Viên Giác lược giảng (2015)
  • Con người toàn diện, hạnh phúc toàn diện (2012)
  • Thực hành con đường Bồ tát qua kinh Duy Ma Cật (2011)
  • Thực tại thiền (2003)
  • Bát nhã Tâm Kinh thiền giải (2002)

Giới thiệu tác giả

Đương Đạo Nguyễn Thế Đăng

Ấn phẩm "TRẦN NHÂN TÔNG,
ĐỜI - ĐẠO KHÔNG HAI"

Dành cho những ai quan tâm tới:

Những ai quan tâm, tìm hiểu lịch sử dân tộc, đặc biệt là lịch sử Phật giáo Việt Nam nói chung và dòng Thiền Trúc Lâm nói riêng
Những ai muốn đi theo con đường của Trần Nhân Tông, Đời - Đạo hợp nhất

Sách cùng tác giả
Đương Đạo Nguyễn Thế Đăng

Vũ Trụ Trong Hạt Bụi

ĐẶT MUA

  • Khổ sách: 14,5 x 20,5 cm
  • Số Trang: 368 trang
  • NXB: Tôn Giáo
  • Giá bìa: 118.000 vnđ
  • Giá ưu đãi: 100.000 vnđ (-15%)

Thực Hành Theo Luận 
Đại Thừa Khởi Tín

ĐẶT MUA

  • Khổ sách: 13 x 20,5 cm
  • Số Trang: 222 trang
  • NXB: Tôn Giáo
  • Giá bìa: 98.000 vnđ
  • Giá ưu đãi: 83.000 vnđ (-15%)

10 Tư Tưởng Pháp Hoa Trong Đời Sống Hằng Ngày

  • Khổ sách: 13 x 19 cm
  • Số Trang: 120 trang
  • NXB: Tôn Giáo
  • Giá bìa: 88.000 vnđ
  • Giá ưu đãi: 75.000 vnđ (-15%)

ĐẶT MUA

Trần Nhân Tông,
Đời - Đạo không hai

  • Khổ sách: 13 x 19 cm
  • Số Trang: 144 trang
  • NXB: Tôn Giáo
  • Giá bìa: 93.000 vnđ
  • Giá ưu đãi: 79.000 vnđ (-15%)

ĐẶT MUA

Hiện Tại Vĩnh Cửu

ĐẶT MUA

  • Khổ sách: 14 x 20 cm
  • Số Trang: 264 trang
  • NXB: Tôn Giáo
  • Giá bìa: 119.000 vnđ
  • Giá ưu đãi: 101.000 vnđ (-15%)

Mở Đôi Mắt Kim Cương

ĐẶT MUA

Tâm Linh Như Là Sự Tiến Hoá Tất Yếu Của Con Người

ĐẶT MUA

  • Khổ sách: 13 x 19 cm
  • Số Trang: 180 trang
  • NXB: Tôn Giáo
  • Giá bìa: 99.000 vnđ
  • Giá ưu đãi: 84.000 vnđ (-15%)
  • Khổ sách: 14,5 x 20,5 cm
  • Số Trang: 260 trang
  • NXB: Tôn Giáo
  • Giá bìa: 99.000 vnđ
  • Giá ưu đãi: 84.000 vnđ (-15%)
Những ai quan tâm đến những nhân vật lịch sử nổi tiếng, mang bản sắc Việt Nam nhưng có tầm ảnh hưởng thế giới
Ai đó muốn đóng góp cho đất nước và thế giới trong thời đại toàn cầu hoá ngày nay, có thể coi Trần Nhân Tông là một con người lý tưởng để noi theo
Những ai muốn tự hoàn thiện bản thân, hướng tới chân - thiện - mỹ
Trần Nhân Tông (1258-1308) là một vị vua anh minh, nhân vật lịch sử nổi bật trong triều đại nhà Trần. Ngài còn là một thiền sư lớn của Phật giáo Việt Nam, ngài đã sáng lập ra dòng Thiền Trúc Lâm, vẫn phát triển cho đến ngày nay. Bên cạnh việc triều chính, ngài không chọn hẳn chỉ con đường tâm linh (đạo) ngay từ đầu bằng cách xuất gia, cũng không chỉ chọn hẳn con đường xã hội (đời), ở mãi với đời. Hai con đường ấy đi song song với nhau, đến tuổi trưởng thành thì hòa hợp với nhau, đến tuổi trung niên thì hợp nhất với nhau cho tới khi ra đi khỏi thế gian. Qua bình giảng các bài thơ của ngài, cuốn sách Trần Nhân Tông, Đời-Đạo không hai đã nói lên được điều đó.

Cuốn sách đặc biệt ở chỗ, tác giả cũng là một tu sĩ Phật giáo, vừa là một nhà tu hành vừa là một người sống trong đời sống, nên cái nhìn đời-đạo không hai của tác giả với ngài Trần Nhân Tông có sự thông giao nhau. Tác giả cảm, thấu, hiểu, bình giảng thơ của ngài với cùng một cái thấy ra “khuôn mặt chúa xuân nay khám phá”.

Với lối bình thơ gần gũi, dễ hiểu, lật mỗi trang sách lại cho người đọc chạm vào những ngày tháng từ “đãi cát kén vàng” cho đến ngày thấy ra “khuôn mặt chúa xuân” của ngài. Nhìn vào cuộc đời cao đẹp đó, chúng ta thấy rằng mình cũng cần “rèn lòng làm Bụt, chỉ cần chuyên nhất dồi mài” thì có ngày chúng ta thấy Trần Nhân Tông ở trong mình.

Có thể nói, Trần Nhân Tông không chỉ là nhà chính trị nhìn xa trông rộng mà còn là nhà quân sự có tài; không chỉ là nhà ngoại giao, mà còn là nhà tư tưởng, nhà văn, nhà thơ; không chỉ là bậc quân vương mà còn là nhà tu hành; không chỉ là nhà văn hoá mà còn là vị thiền sư lỗi lạc.Thời đại oanh liệt đã sản sinh ra ông và ông đã làm cho thời Trần càng thêm oanh liệt.


Trần Nhân Tông (1258-1308) là một vị vua anh minh, nhân vật lịch sử nổi bật trong 
triều đại nhà Trần. Ngài còn là một thiền sư lớn của Phật giáo Việt Nam, ngài đã sáng lập ra 
dòng Thiền Trúc Lâm, vẫn phát triển cho đến ngày nay. Bên cạnh việc triều chính, ngài không chọn hẳn chỉ con đường tâm linh (Đạo) ngay từ đầu bằng cách xuất gia, cũng không chỉ chọn hẳn con đường xã hội (Đời), ở mãi với đời. Hai con đường ấy đi song song với nhau, đến tuổi trưởng thành thì hòa hợp với nhau, đến tuổi trung niên thì hợp nhất với nhau cho tới khi ra đi khỏi thế gian. Qua bình giảng các bài thơ của ngài, cuốn sách Trần Nhân Tông, Đời - Đạo không hai đã nói lên được điều đó.

Cuốn sách đặc biệt ở chỗ, tác giả cũng là một tu sĩ Phật giáo, vừa là một nhà tu hành vừa là một người sống trong đời sống, nên cái nhìn Đời - Đạo không hai của tác giả với ngài Trần Nhân Tông có sự thông giao nhau. Tác giả cảm, thấu, hiểu, bình giảng thơ của ngài với cùng một cái thấy ra “khuôn mặt chúa xuân nay khám phá”.

Với lối bình thơ gần gũi, dễ hiểu, lật mỗi trang sách lại cho người đọc chạm vào những ngày tháng từ “đãi cát kén vàng” cho đến ngày thấy ra “khuôn mặt chúa xuân” của ngài. Nhìn vào cuộc đời cao đẹp đó, chúng ta thấy rằng mình cũng cần “rèn lòng làm Bụt, chỉ cần chuyên nhất dồi mài” thì có ngày chúng ta thấy Trần Nhân Tông ở trong mình.

Có thể nói, Trần Nhân Tông không chỉ là nhà chính trị nhìn xa trông rộng mà còn là nhà quân sự có tài; không chỉ là nhà ngoại giao, mà còn là nhà tư tưởng, nhà văn, nhà thơ; không chỉ là bậc quân vương mà còn là nhà tu hành; không chỉ là nhà văn hoá mà còn là vị thiền sư lỗi lạc. Thời đại oanh liệt đã sản sinh ra ngài và ngài đã                       làm cho thời Trần càng thêm oanh liệt. 


Lời mời đọc cuốn sách

ĐẶT MUA SÁCH
CỦA TÁC GIẢ NGUYỄN THẾ ĐĂNG

ĐẶT MUA

Cảm ơn bạn đã ủng hộ Sách Thiện Tri Thức!

Niên thiếu chưa từng rõ Sắc – Không

Đây là câu đầu tiên trong bài Xuân Vãn của ngài. Bài này nói sơ qua về con đường tâm linh cá nhân:

Niên thiếu chưa từng rõ sắc – Không,
Một xuân tâm ở tại trăm hoa
Khuôn mặt chúa Xuân nay khám phá
Giường gỗ, đệm thiền ngắm rụng hồng.


Niên thiếu chưa từng rõ Sắc – Không. Vào thời niên thiếu, chưa từng rõ (liễu), chưa từng ngộ (liễu ngộ), chưa từng biết trực tiếp tánh Không là gì.
Chưa có kinh nghiệm tâm linh trực tiếp về tánh Không, nhưng không phải ngài không có kiến thức và không học hỏi về tánh Không, bởi vì ông nội ngài là vua Trần Thái Tông (1218 – 1277) và cha ngài là vua Trần Thánh Tông (1240 – 1292) đều là những người ngộ đạo, và ngộ đạo khi đang làm vua.

Vua Trần Thái Tông, ông nội của ngài, trực ngộ tánh Không như thế này:
“Vì thế trẫm cùng mọi người trở về kinh, miễn cưỡng lên ngôi. Trong khoảng hơn mười năm, mỗi khi rảnh việc trẫm lại hội họp các tôn đức để tham thiền hỏi đạo, và các kinh điển đại giáo thì đều tham cứu. Trẫm thường đọc Kinh Kim Cương, một hôm đến chỗ “ưng vô sở trụ nhi sanh kỳ tâm” (hãy nên sanh tâm vào chỗ không trụ), vừa gấp sách lại ngâm nga, bổng nhiên tự ngộ. Lấy chỗ ngộ ấy làm bài ca này, đặt tên là Thiền tông chỉ nam.
Năm ấy Quốc sư từ núi Yên Tử về kinh, trẫm mời ở chùa Thắng Nghiêm để in kinh sách. Trẫm đưa sách này cho quốc sư xem. Sư mới xem qua một lần, đã tán thưởng:
̶ Tâm của chư Phật ở hết cả trong này, sao không in thành kinh để chỉ dạy cho hàng hậu học?”

Cha ngài, vua Trần Thánh Tông, trong bài Độc Đại Tuệ ngữ lục hữu cảm, viết:

Đập ngói dùi rùa ba chục niên
Bao lần xuất hạn bởi tham thiền
Một mai biết suốt khuôn mặt mẹ
Mặt mũi nguyên lai thiếu một bên

Trước mắt không sắc, tai không thanh
Một phiến tâm đầu tự đúc thành
Thanh sắc chẳng can, ngoài môi lưỡi
Mặc người lí nhí với lao xao.


Sống trong một nền văn hóa của gia đình và dòng họ như vậy thì câu nói “niên thiếu chưa từng rõ sắc – Không” chỉ có nghĩa là ngài chưa ngộ tánh Không, chứ ngài vẫn nghe, học, đọc, nghiên cứu (Văn), và có lẽ thêm cả tư duy (Tư), rồi thiền định thiền quán về tánh Không (Tu).
……………………….
Từ thời niên thiếu ngài đã học để lên làm vua, đồng thời vẫn tu tập, như cha mình, “đập ngói dùi rùa ba chục niên, bao lần xuất hạn bởi tham thiền”. Cho đến tuổi trưởng thành, khi đang làm vua và chuẩn bị cho lần thứ ba quân Nguyên Mông tiến đánh, ngài đã thấy ra “khuôn mặt chúa Xuân” và cũng là “khuôn mặt xưa nay của chính mình”:

Khuôn mặt chúa Xuân nay khám phá
Giường gỗ, đệm thiền ngắm rụng hồng.



Học biết bản tánh để sống giữa đời:

Sự học với Thượng sĩ hoàn tất vào năm 1287, năm ngài 29 tuổi, trong lễ tang của Nguyên Thánh mẫu hậu, vì sau đó không nghe đến chuyện ngài học với Thượng sĩ nữa.
“Một hôm ta hỏi ngài về ‘bổn phận tông chỉ’. Thượng sĩ đáp:
̶ Quay lại thấy cái thật là chính mình đó là phận sự gốc, chẳng từ nơi khác mà được. (Phản quan tự kỷ bổn phận sự, bất tùng tha đắc).
̶ Ta bỗng nhiên rõ được đường vào, bèn vén áo thờ ngài làm thầy”.

Trong truyền thống Ấn – Tạng, một người có thể có nhiều vị thầy, nhưng vị thầy nào chỉ cho ta được bản tâm, thì vị đó được gọi là guru gốc (root guru), tức là bổn sư. Như vậy Thượng sĩ Tuệ Trung là bổn sư của vua Nhân Tông.
Trong phần Niệm hương trước khi thuyết pháp ở viện Kỳ Lân, chùa Sùng Nghiêm, ngài khấn:
“Một nén hương này, nướng cũng không chín, đốt cũng không cháy, đánh vào không mở, kéo lại không đến, nhìn trộm thì con ngươi khô kiệt, ngửi thử thì võ não tét đôi. Sức nóng lò hương, dâng lên Vô Nhị thượng nhân, Tuệ Trung đại sĩ, mưa pháp thấm nhuần, cháu con đều gội.”
Cho thấy đối với ngài, Tuệ Trung thượng sĩ là bổn sư và được kính trọng nhường nào.
Trong buổi dạy này, ngài đã xác quyết được “bổn phận sự” là cái gì, để nắm giữ, hộ trì nó cho đến suốt đời.
Bổn phận sự là gì? Là quay lại thấy cái chính mình chân thật, chưa từng nhiễm ô dầu trải qua bao đời sanh tử. Đó là cái mà Lục Tổ gọi là “tự tánh”:

Nào ngờ tự tánh vốn tự thanh tịnh,
Nào ngờ tự tánh vốn chẳng sanh diệt,
Nào ngờ tự tánh vốn tự đầy đủ,
Nào ngờ tự tánh vốn không động lay,
Nào ngờ tự tánh sanh ra muôn pháp.


Cái đó là “bản tánh của tâm”, là “bản tánh, thật tướng của tất cả mọi sự”. Cái đó là “giác tính quang quang” (Đắc thú lâm tuyền..). Và thấy không phải chỉ một lần, mà phải thường thấy, mãi mãi thấy, để những hình tướng giả hợp của sanh tử không còn che lấp nó. Và rồi chúng tan biến như chưa hề có.
***
Cái Chính Mình, mà theo danh từ có từ xưa là Tự Kỷ Phật (Phật Chính Mình), là gì? Đó là “bản tánh của tâm” và cũng là “bản tánh của tất cả mọi sự” (pháp tánh).
Bản tánh của tâm thì không hề nhiễm ô bởi những ý tưởng dù tốt dù xấu. Ý tưởng có khởi hiện, nhưng chẳng dính dáng gì đến bản tánh của tâm. Bản tánh của tâm là sự “viễn ly” (xa lìa) căn bản, nền tảng, vốn xa lìa, vì tất cả mọi khởi niệm đều chẳng dính dáng gì đến nó.
Tương tự, bản tánh của mọi sự chẳng bao giờ bị nhiễm ô bởi sự vật nào, bởi hiện tướng nào.
Cho nên hộ trì, giữ gìn, không để thất lạc bản tánh của tâm cũng là bản tánh của mọi sự, tức là giữ gìn sự không ô nhiễm, giữ gìn sự giải thoát vốn có. Sự giữ gìn này không đòi hỏi hoàn cảnh, lối sống, cho nên đây là thực hành cốt lõi trong đời sống hàng ngày.
Trong Cư trần, vua Trần Nhân Tông đã nói nhiều đến hai phẩm tính của bản tánh của tâm, của pháp tánh. Đó là tánh Không và tánh Sáng. Chẳng hạn:

Hỏi phép chân không
Hề chi lánh ngại thanh chấp sắc.
Biết Chân Như, tin Bát nhã,
Chớ còn tìm Phật, Tổ tây đông.
Chứng thật tướng, ngõ vô vi,
Nào nhọc hỏi kinh thiền nam bắc…
(Hội thứ tư).
Yêu tính sáng hơn yêu châu báu.
Gìn tính sáng tính mới hầu an.
Di Đà là tính sáng soi.
Gìn tính sáng, mựa lạc tà đạo.


Tánh Không và tánh Sáng hay tánh giác là bản tánh của tâm, là Phật. Cho nên gìn giữ bản tánh của tâm là gìn giữ Phật:

Chỉn Bụt là lòng
Hãy xá ướm hỏi đòi cơ Mã Tổ
(Hội thứ ba)
Vậy mới hay
Bụt ở trong nhà,
Chẳng phải tìm xa
Nhân khuấy (quên) bản nên ta tìm Bụt
Đến cốc (biết) hay chỉn Bụt là ta…

(Hội thứ năm)

Tánh Không, tánh Như (Chân Như) và tánh Sáng là bản tánh của tâm và cũng là bản tánh của tất cả mọi sự. Đây cũng là tánh giác vốn có nơi mỗi người:
Giác tính quang quang
Chẳng còn bỉ thử.

(Đắc thú lâm tuyền thành đạo ca).

Cho nên khi biết bổn phận sự của một hành giả thì người ấy “gìn”, (“gìn tánh sáng”) gìn giữ, hộ trì bản tánh ấy và như vậy đưa thân tâm và thế giới trở lại bản tánh vốn thanh tịnh của chúng.
Thân tâm và thế giới lúc ấy là sự biểu lộ của tánh Không, tánh Như, và tánh sáng, tức là tánh giác. Đó là niềm hoan hỷ, tự do nơi chính các giác quan mắt thấy, tai nghe… được ngài diễn tả sơ qua trong những câu đầu của hội thứ nhất:

Chẳng còn nhớ châu yêu ngọc quý
Thị phi tiếng lặng
Được dầu nghe yến thốt oanh ngâm.
Chơi nước biếc ẩn non xanh
Nhân gian có nhiều người đắc ý.
Biết đào hồng, hay liễu lục,
Thiên hạ năng mấy chủ tri âm.
Nguyệt bạc vầng xanh
Soi mọi chỗ thiền hà lai sáng
Liễu mềm hoa tốt,
Ngất quần sinh huệ nhật sâm lâm…


Với sự “gìn”, gìn giữ, hộ trì, bảo nhậm bổn phận sự là cái Chính Mình tức là tánh Không và tánh Sáng, cuộc đời bình thường hàng ngày biến thành cõi thanh tịnh, phiền não biến thành niềm vui, an lạc, và nói theo kinh điển, “sanh tử tức là Niết bàn”. Đây là sự giàu có vô lượng của một người biết bổn phận sự là gì và biết gìn giữ bổn phận sự Thường, Lạc, Chân, Tịnh vốn là của mình ấy.

Nhưng sự gìn giữ, hộ trì, bảo nhậm bản tánh không phải là chuyện dễ dàng, mà phải làm lâu dài. Đây là quá trình tiệm tu hay diệu tu.

Vàng chưa hết quặng,
Sá tua chín phen đúc chín phen rèn.
(Hội thứ Sáu)
Rèn lòng làm Bụt
Chỉn xá tua một sức dồi mài.
Đãi cát kén vàng,
Còn lại phải nhiều phen lựa lọc.

(Hội thứ Tám)

Các kinh cũng ví làm hiện lộ hoàn toàn bản tâm, bản tánh như việc lọc rèn vàng. Lúc ấy cuộc đời trần thế với đầy dẫy phiền não chính là lò luyện vàng hiệu quả nhất.

***
Cụ thể, đối với ngài, việc “chín phen đúc chín phen rèn” được làm ngay trong cuộc chiến chống quân Nguyên xâm lược, trong sự điều hành đất nước của một vị vua, với sự khéo léo từ bi trong đối nhân xử thế đối với hàng quan quân và đối với hoàng tộc.

TRÍCH ĐOẠN HAY

đặt mua những ẤN PHẨM khác của sách thiện tri thức

đặt mua những ẤN PHẨM khác của sách thiện tri thức

©2024 Bản quyền thuộc về Sách Thiện Tri Thức

CÔNG TY XUẤT BẢN SÁCH THIỆN TRI THỨC

Địa chỉ: số 141, ngõ 325 Kim Ngưu, Hai Bà Trưng, Hà Nội

Hotline: + 84328 033 988

Email: contact@thientrithuc.com.vn

Website: http://thientrithuc.com.vn

HỆ THỐNG PHÁT HÀNH