Bồ tát sống trong chiều kích tánh Không khác với sanh tử, một chiều kích không có không gian, “chẳng đắc chút pháp nào”, một chiều kích không có thời gian, “chẳng đắc chút pháp nào dù quá khứ hiện tại vị lai”. Trong chiều kích ấy, không có không gian và thời gian của sanh tử, nghĩa là không có nghiệp và sự diễn tiến của nghiệp và nghiệp quả, không có chút pháp nào làm nhân, không có chút pháp nào làm quả. Tóm lại, Bồ tát sống trong chiều kích ngoài lịch sử. Bồ tát là người trong trắng vô tội với lịch sử.
Bồ tát mặc áo giáp của đại trí và đại bi, đi xuyên qua những hưng vong, hy vọng và thất vọng của lịch sử. Bồ tát đi xuyên qua sanh tử và lịch sử nghiệp của nó mà vẫn giải thoát vì rõ biết thật tướng Không, như huyễn của lịch sử nên siêu quá được. Con đường vào sanh tử, vào lịch sử nghiệp đó chính là con đường đến Niết bàn, “thừa đến Niết bàn”, bởi vì chính trong sanh tử, trong lịch sử nghiệp mà Bồ tát chứng ngộ tánh Không. Bồ tát giải thoát ngay trong công việc hóa độ rộng khắp của Bồ tát hạnh nơi cõi sanh tử, cõi nghiệp và nghiệp báo của chúng sanh.
Nghiệp là sự chuyển động, tương tác của nhân quả, như những làn sóng đến đi, lên xuống, sinh, trụ, dị, diệt trong đại dương. Nhưng mặt biển vẫn bằng thẳng một đường chân trời, như những dao động hình sin, hình cos luôn luôn lên xuống theo đường quy chiếu là một trục cân bằng, thẳng ngang. Một nhân là một hành động (nghiệp), một lực đi lên hoặc đi xuống thì phải có một quả, một lực đi xuống hoặc đi lên phản lực lại để luôn luôn trở lại trục cân bằng, thẳng ngang. Tâm Bồ tát cũng cân bằng như thế, ở nơi mọi làn sóng lên xuống vẫn bằng thẳng như mặt biển nơi đường chân trời. Đường chân trời bằng thẳng ấy là sự cân bằng vĩnh viễn của nhân và quả. Nhìn rộng ra, lịch sử đích thực chính là sự cân bằng của nhân và quả, là đường chân trời bằng thẳng vô tận cho mọi làn sóng nhân quả lên xuống. Bồ tát sống cái lịch sử độ không và bằng thẳng ấy, là cái tâm bình đẳng ấy, không nghiêng lệch thiên vị, không thương ghét lấy bỏ. Tâm bình đẳng ấy là cái “đạo bình chánh” (bằng thẳng) không thiên lệch, không lấy bỏ vì biết lịch sử là sự biểu hiện của nghiệp cá nhân và nghiệp cộng đồng, và chúng là như huyễn khi đặt chúng vào nền tảng tánh Không, “không có chút pháp nào”.
Bồ tát đi vào sanh tử, đi vào lịch sử nghiệp của mỗi người, của những tập thể con người, bằng tâm Không, bằng tâm như tấm gương sáng khắp (Đại viên cảnh trí). Tấm gương tâm Không ấy chứa tất cả mọi hiện hình của bóng, sự chuyển động lên xuống hợp tan của mọi bóng, nhưng không ô nhiễm bởi các bóng. Các bóng với nghiệp của chúng đều có trong gương nhưng không có bóng nào dính chặt được vào gương; vì với gương, các bóng đều như huyễn.
Một ngàn năm, nhiều giấc mộng trong một giấc mơ
Một ngàn năm…
Một ngàn năm đã qua đi cho đến khi tôi nhìn thấy viên gạch hoàng thành Thăng Long này, bởi thế mà bỗng dưng tôi nhòe nước mắt. Trong giọt nước mắt của ngàn năm ấy, tôi mộng thấy tro cốt mình đã mấy lần rắc xuống sông Hằng, tôi mộng thấy mình trong một ngàn năm ấy đã có lần mở cửa phòng thiền để nhìn những đỉnh núi tuyết trắng dưới trời xanh mùa xuân Tây Tạng, tôi mộng thấy mình trong một ngàn năm ấy đã có một lần mình tụng kinh trên Ngũ Đài Sơn nhìn về phương Nam cố quốc, tôi mộng thấy mình trong một ngàn năm ấy có lần mặc áo thụng dài ngồi bên bờ sông Nile cạnh những vườn ô liu ngát nắng, tôi mộng thấy mình trong một ngàn năm ấy có lần bì bõm cày ruộng giữa trưa, trên bờ là người vợ nghèo mặt đỏ bừng, mồ hôi lấm tấm đang ngồi nghỉ… Tôi mộng thấy biết bao “mình” trong một ngàn năm…
………
Cầm viên gạch trên tay, tôi tưởng thấy quân Pháp chiếm Việt Nam vào nửa sau thế kỷ 19. Cầm viên gạch trên tay, tôi thấy những ngày kháng chiến cho đến sự chia đôi đất nước giữa thế kỷ 20. Cầm viên gạch trên tay, tôi thấy những người lính trẻ và già của hai miền ngã xuống, ngã xuống ở hai bên chiến tuyến vô hình, và những người dân cả trẻ lẫn già, cả nam lẫn nữ vĩnh viễn nằm lại bên những con đường nơi chiến tranh và lịch sử đã đi qua. Tất cả và tất cả những đồng bào của tôi nằm lại đâu đó rải rác trên quê hương này, trên đôi mắt khép vẫn còn loáng thoáng giấc mơ Thăng Long mờ mịt hương khói. Cầm viên gạch trên tay, tôi thấy ngày thống nhất, mọi đôi mắt của tất cả những người còn sống đều nhòa lệ. Và bây giờ, cầm viên gạch hoàng thành trên tay, tôi tưởng thấy nhịp đập của hàng chục triệu trái tim ở đất nước này và của hàng triệu trái tim của người Việt xa xứ, ở Nam Phi, Ai Cập, ở châu Âu, Bắc Mỹ, ở những nơi xa xôi nhất của trái đất, tất cả và tất cả đều ít nhất vẫn có một cái gì đó chung cùng với nhịp đập của Thăng Long.
Áp viên gạch Thăng Long vào ngực, tôi cảm thấy ước mơ của Thiền sư Vạn Hạnh và của vua Lý Công Uẩn, đúc kết những ước mơ của những đời trước đó, nóng ran lồng ngực: Đất nước Việt phải là con rồng bay lên (đúng với tên gọi Thăng Long). Có ngỡ ngàng quá chăng khi người ta gọi những nước châu Á đang bước vào hàng các nước phát triển là những con rồng. Nhưng không chỉ có thế, ước mơ của đời Lý và đời Trần kế tiếp cho đến những đời sau, không chỉ là xây dựng đất nước Việt Nam thành một quốc gia hưng thịnh về vật chất (kinh tế, quân sự…) mà còn thịnh vượng về tinh thần, bởi vì con rồng là biểu tượng cho tinh thần và tâm linh của nền văn minh Đông Á. Trong quẻ đầu tiên của Kinh Dịch, quẻ Kiền, con rồng tượng trưng cho tinh thần và tâm linh. Cả sáu hào của quẻ Kiền đều nói về sự đi lên, sự tiến hóa, sự nâng cấp của tinh thần, của tâm linh, và được tượng trưng bằng con rồng. Con rồng từ dưới đất bay lên trời là quá trình tiến hóa, thăng hoa của tinh thần và tâm linh con người. Hào 1: “Rồng còn tiềm ẩn” (Tiềm long). Hào 2: “Rồng hiện trên cánh đồng; thiên hạ văn minh” (Hiện long tại điền; thiên hạ văn minh). Hào 3: “Người quân tử suốt ngày tự cường không ngừng nghỉ (như con rồng)” (Quân tử chung nhật càn, dĩ tự cường bất tức). Hào 4: “Có khi bay vút lên cao, có khi lui về dưới vực” (Hoặc dược tại uyên). Hào 5: “Rồng bay lên trời, thịnh trị cao cả” (Phi long tại thiên, thượng trị dã). Hào 6: “Rồng bay cao quá mức, coi chừng có hối hận” (Kháng long hữu hối).
Thiền sư Vạn Hạnh và vua Lý Công Uẩn hẳn ý thức hơn ai hết con đường (đạo) nào, và cách nào để con rồng tâm linh của dân tộc Việt, vốn được xem là con Rồng cháu Tiên bay bổng trên trời. Đâu có phải tình cờ khi suốt chiều dài lịch sử của dân tộc Việt, khi nào dân tộc hưng thịnh thì đạo Phật hưng thịnh và đạo Phật hưng thịnh thì dân tộc hưng thịnh. Thăng Long hai chữ ấy đâu chỉ đẹp một cách tình cờ.
Cầm viên gạch trên tay, tôi thấy cả một ước mơ, một giấc mơ – theo cách tôi hiểu, giấc mơ là giấc mộng mở mắt, mộng giữa ban ngày – kéo dài suốt một ngàn năm của dân tộc. Cầm viên gạch trên tay tôi thấy những con người, những đôi mắt vĩnh viễn khép lại trong chiến tranh, chiến tranh chống ngoại xâm và nội chiến, những đôi mắt kiên định và những đôi mắt ngỡ ngàng, những đôi mắt chết già và những đôi mắt chết trẻ, tất cả những đôi mắt đều chia sẻ với nhau một giấc mơ Thăng Long duy nhất, dù rõ rệt hay mơ hồ, dù ý thức hay vô thức. Cầm viên gạch trên tay, tôi thấy những đất đai, những năm đất đai màu mỡ được mùa, những năm đất đai gặp nắng hạn, lũ lụt, nhưng dù đất đai ở đâu, vùng khắc nghiệt hay thuận lợi trù phú, tất cả mọi vùng đều chia sẻ một giấc mơ niềm tin với cuộc đất Thăng Long. Đất Thăng Long ngàn năm vẫn như thế: “Vùng này mặt đất rộng mà bằng phẳng, thế đất cao ráo mà sáng sủa, dân cư không khổ, không thấp trũng, muôn vật hết sức tươi tốt phồn vinh. Xem khắp nước Việt đó là nơi thắng địa, thực là chỗ hội tụ quan yếu của bốn phương, đúng là nơi thượng đô kinh sư của muôn đời” (Bài Chiếu dời đô về Thăng Long của Lý Công Uẩn). Cầm viên gạch trên tay, tôi thấy sự thiêng liêng của lịch sử, một cộng nghiệp lớn lao của một dân tộc mà người xưa thường gọi là thiên mệnh.
Cầm viên gạch trên tay, tôi thấy rất nhiều giấc mộng trong chỉ một giấc mơ:
Suốt một ngàn năm, tôi chưa hề mơ làm vương làm tướng,
Chỉ mơ làm một người lính già giữ mãi một Thăng Long.
Mặc áo giáp đi xuyên qua lịch sử
Lịch sử là kết quả của những hành động đã tạo ra của con người và tiếp tục được tạo ra bằng những hành động hiện tại. Hành động có thể là tốt, xấu, hoặc trung tính. Làm người không ai thoát khỏi việc tạo ra hành động, tạo ra lịch sử, dù của một cá nhân hay một xã hội.
Lịch sử là sự biểu hiện của nghiệp và nghiệp quả, nghĩa là sự biểu hiện của những hành động của con người. Lịch sử con người là những hưng thịnh và suy vi, những thành công và thất bại, những xây dựng và điêu tàn, những hòa bình và chiến tranh. Lịch sử, với rất nhiều máu và nước mắt, là những vết thương khổ đau in hằn lên cuộc sống của con người.
Một trong những công việc của Bồ tát là chữa trị những vết thương, những tai hại của giết hại, chiến tranh, trộm cướp, tà dâm, nói dối, say sưa và chuyển hóa tâm xấu ác của con người để họ không gây ra những nguyên nhân cho những tệ nạn ấy nữa. Thế nên Bồ tát là người sống cùng chúng sanh, chia sẻ cùng một lịch sử tốt xấu, hưng phế của chúng sanh, nhưng Bồ tát đi xuyên qua lịch sử mà không có các vết thương, các phiền não nhờ mặc áo giáp của trí huệ tánh Không và đại bi vô ngại.