ĐẶT MUA

ĐỌC THỬ

Tình yêu với đất nước, con người, tình yêu với Phật giáo nói riêng và trí tuệ cổ xưa nói chung đã hiển bày thật hiện hữu qua từng câu chữ trong Hiện Tại Vĩnh Cửu. Với một ấn phẩm chứa đựng nhiều trí tuệ, được viết bằng thứ ngôn ngữ tràn đầy cảm hứng, qua mỗi một chương phần, chiều kích tinh thần của người đọc như được mở rộng thêm, sâu hơn, tràn hứng khởi để có thêm cơ hội tiếp chạm với sự tự do toàn diện, đó cũng chính là hiện tại vĩnh cửu.
Trong sự tự do toàn diện, có mặt khắp cả, tự do không còn là tự do hạn hẹp để phải chọn lựa, vì chọn lựa là mất mát. Tự do ở đây là một cái toàn thể, tự do như chim bay trong không gian, có tất cả mọi chọn lựa, có tất cả mọi phương hướng để chọn lựa, sự tự do ấy, không gian bao la của con chim bay có mọi tiềm năng, mọi khả thể cho sự chọn lựa. Khi người ta không còn sống trong những phần tử phân mảnh mà sống trong một đời sống toàn thể là Không, vô tướng, giải thoát thì sự chọn lựa không làm cho người ấy bị giới hạn, mà chọn lựa chính là tự do. Đó chính là tự do chọn lựa tự do.
Sự tự do toàn diện, đó cũng chính là cái hiện tại vĩnh cửu, cái quê nhà, cái nguồn mà tác giả đã nhiều lần nhắc đến: 
Về đến quê nhà thì thấy khắp cả đều là quê nhà, đều là tánh Không, tánh Như…. Tất cả những con đường, những phương pháp, những pháp môn Phật giáo đều đưa chúng ta về đến nguồn ấy…. 
Đồng nguồn, đó là đại từ đại bi.

Nguyện ai ai cũng sẽ tiếp chạm được hiện tại vĩnh cửu nơi mỗi người khi đọc tác phẩm tuyệt vời này!

GIỚI THIỆU SÁCH

Giới thiệu TÁC GIẢ

Đương Đạo Nguyễn Thế Đăng

Đương Đạo Nguyễn Thế Đăng là một nhà sư, thuộc thế hệ thứ ba của Tổ Khai sơn chùa Tây Tạng ở Bình Dương là Thiền sư Nhẫn Tế (1888 – 1951). Tổ vốn thuộc dòng Lâm Tế đời thứ 40, từng sang Ấn Độ, Nepal và Tây Tạng tham bái và tu học. Tổ đã cầu đạo ở Tây Tạng, đắc pháp và được ban cho pháp danh Thubten Osel bởi những vị cao cấp của dòng Mũ Vàng (Gelugpa). Sau hơn một năm ở Tây Tạng, Tổ được phép trở về Việt Nam để lập chùa Tây Tạng, Bình Dương.
Nhiều năm qua, tác giả Nguyễn Thế Đăng đã viết hàng trăm bài đăng trên Văn Hóa Phật Giáo. Tuần san và Nguyệt san Giác Ngộ cũng đã đăng hàng chục bài của tác giả, chưa kể các báo điện tử như giacngo.vn, thuvienhoasen, phattuvietnam.net, vanhoaphatgiaoblog.com, sangdaotrongdoi.vn… mỗi báo cũng đã đăng hàng chục bài.

📒 Tác phẩm tiêu biểu:
  • Bài Ca Của Tự Do Và Niềm Vui (2022)
  • Vũ Trụ Trong Hạt Bụi (2022) 
  • Thực Hành Theo Luận Đại thừa Khởi Tín (2021)
  • Thiền Tông Bản Hạnh (2020)
  • Chú Giảng Cư Trần Lạc Đạo Phú (2019)
  • Kinh Nhập Lăng Già - Dịch Và Giảng (2016)
  • Lục Tổ Pháp Bảo Đàn Kinh Giảng Giải (2016)
  • Kinh Lăng Nghiêm Hành Giải (2016)
  • Kinh Viên Giác Lược Giảng (2015)
  • Thực Hành Kinh Kim Cương Bát Nhã 92015)
  • 10 Tư Tưởng Pháp Hoa Trong Đời Sống Hằng Ngày (2013)
  • Con Người Toàn Diện, Hạnh Phúc Toàn Diện (2012)
  • Thực Hành Con Đường Bồ Tát Qua Kinh Duy Ma Cật (2011)
  • Thực Tại Thiền (2003)

Ấn phẩm "HIỆN TẠI VĨNH CỬU"

Dành cho những ai quan tâm tới:

Mong muốn thấu hiểu lời Phật dạy một cách khoa học, trực tiếp

Mong muốn ứng dụng hiệu quả những triết lý trí tuệ Phật giáo trong đời sống hàng ngày

Sự vận hành của tâm thức, vũ trụ, vật lý lượng tử, mối liên kết giữa khoa học và Phật giáo

ĐẶT MUA SÁCH
CỦA TÁC GIẢ NGUYỄN THẾ ĐĂNG

ĐẶT MUA

  • Tên sách: Hiện Tại Vĩnh Cửu
  • Tác giả: Đương Đạo Nguyễn Thế Đăng  
  • Khổ sách: 14,5 cm x 20,5 cm
  • Số trang: 266 trang
  • Giá bìa: 119.000 vnđ
  • Giá ưu đãi: 89.000 vnđ (-25%)  Thời gian áp dụng tới hết 30/04/2023) 
  • Phí ship toàn quốc: đồng giá 25.000 vnđ

THÔNG TIN SÁCH

Cảm ơn bạn đã ủng hộ Sách Thiện Tri Thức!

Đọc thử

Với Đông phương cũng có những quan niệm xưa cổ về vũ trụ, trong văn hóa Ấn Độ và Trung Hoa. Nhưng nói về vũ trụ rộng nhất và sâu nhất là Kinh Hoa Nghiêm, được xem là kinh cao nhất của Phật giáo, được nói ngay sau khi Đức Phật giác ngộ.

Vũ Trụ Trong Hạt Bụi

118.000 vnđ
95.000 vnđ
20% 
OFF
“Lúc các Đại Bồ tát mặc đại mũ giáp, ngồi xe Đại thừa, an trụ nơi đạo ấy, nếu chẳng dùng từ bi hỷ xả soi khắp chúng sanh, chẳng yêu chúng sanh như mình, thì mũ giáp Đại thừa ấy cả đại địa chẳng kham chịu nổi, tất cả chúng sanh chẳng thân cận được”.

Mũ giáp ấy là tánh Không, và do tánh Không, Bồ tát có thể đi vào mọi nơi chốn sanh tử. Nhưng tánh Không phải đi với từ bi hỷ xả, vì nếu không, thì “đại địa chẳng kham chịu nổi, tất cả chúng sanh chẳng thân cận được.”

“Vì có thể tùy nhập tất cả xứ vậy. Vì các Đại Bồ tát muốn tùy nhập tất cả pháp nên mặc đại mũ giáp. Vì muốn tùy nhập tất cả pháp nên ngồi xe Đại thừa. Vì muốn tùy nhập tất cả pháp nên trụ nơi đại đạo, ở nơi tất cả pháp bình đẳng mà hướng đến vậy”.
Bồ tát sống trong chiều kích tánh Không khác với sanh tử, một chiều kích không có không gian, “chẳng đắc chút pháp nào”, một chiều kích không có thời gian, “chẳng đắc chút pháp nào dù quá khứ hiện tại vị lai”. Trong chiều kích ấy, không có không gian và thời gian của sanh tử, nghĩa là không có nghiệp và sự diễn tiến của nghiệp và nghiệp quả, không có chút pháp nào làm nhân, không có chút pháp nào làm quả. Tóm lại, Bồ tát sống trong chiều kích ngoài lịch sử. Bồ tát là người trong trắng vô tội với lịch sử.

Bồ tát mặc áo giáp của đại trí và đại bi, đi xuyên qua những hưng vong, hy vọng và thất vọng của lịch sử. Bồ tát đi xuyên qua sanh tử và lịch sử nghiệp của nó mà vẫn giải thoát vì rõ biết thật tướng Không, như huyễn của lịch sử nên siêu quá được. Con đường vào sanh tử, vào lịch sử nghiệp đó chính là con đường đến Niết bàn, “thừa đến Niết bàn”, bởi vì chính trong sanh tử, trong lịch sử nghiệp mà Bồ tát chứng ngộ tánh Không. Bồ tát giải thoát ngay trong công việc hóa độ rộng khắp của Bồ tát hạnh nơi cõi sanh tử, cõi nghiệp và nghiệp báo của chúng sanh. 

Nghiệp là sự chuyển động, tương tác của nhân quả, như những làn sóng đến đi, lên xuống, sinh, trụ, dị, diệt trong đại dương. Nhưng mặt biển vẫn bằng thẳng một đường chân trời, như những dao động hình sin, hình cos luôn luôn lên xuống theo đường quy chiếu là một trục cân bằng, thẳng ngang. Một nhân là một hành động (nghiệp), một lực đi lên hoặc đi xuống thì phải có một quả, một lực đi xuống hoặc đi lên phản lực lại để luôn luôn trở lại trục cân bằng, thẳng ngang. Tâm Bồ tát cũng cân bằng như thế, ở nơi mọi làn sóng lên xuống vẫn bằng thẳng như mặt biển nơi đường chân trời. Đường chân trời bằng thẳng ấy là sự cân bằng vĩnh viễn của nhân và quả. Nhìn rộng ra, lịch sử đích thực chính là sự cân bằng của nhân và quả, là đường chân trời bằng thẳng vô tận cho mọi làn sóng nhân quả lên xuống. Bồ tát sống cái lịch sử độ không và bằng thẳng ấy, là cái tâm bình đẳng ấy, không nghiêng lệch thiên vị, không thương ghét lấy bỏ. Tâm bình đẳng ấy là cái “đạo bình chánh” (bằng thẳng) không thiên lệch, không lấy bỏ vì biết lịch sử là sự biểu hiện của nghiệp cá nhân và nghiệp cộng đồng, và chúng là như huyễn khi đặt chúng vào nền tảng tánh Không, “không có chút pháp nào”.

Bồ tát đi vào sanh tử, đi vào lịch sử nghiệp của mỗi người, của những tập thể con người, bằng tâm Không, bằng tâm như tấm gương sáng khắp (Đại viên cảnh trí). Tấm gương tâm Không ấy chứa tất cả mọi hiện hình của bóng, sự chuyển động lên xuống hợp tan của mọi bóng, nhưng không ô nhiễm bởi các bóng. Các bóng với nghiệp của chúng đều có trong gương nhưng không có bóng nào dính chặt được vào gương; vì với gương, các bóng đều như huyễn.

Một ngàn năm, nhiều giấc mộng trong một giấc mơ

Một ngàn năm…
Một ngàn năm đã qua đi cho đến khi tôi nhìn thấy viên gạch hoàng thành Thăng Long này, bởi thế mà bỗng dưng tôi nhòe nước mắt. Trong giọt nước mắt của ngàn năm ấy, tôi mộng thấy tro cốt mình đã mấy lần rắc xuống sông Hằng, tôi mộng thấy mình trong một ngàn năm ấy đã có lần mở cửa phòng thiền để nhìn những đỉnh núi tuyết trắng dưới trời xanh mùa xuân Tây Tạng, tôi mộng thấy mình trong một ngàn năm ấy đã có một lần mình tụng kinh trên Ngũ Đài Sơn nhìn về phương Nam cố quốc, tôi mộng thấy mình trong một ngàn năm ấy có lần mặc áo thụng dài ngồi bên bờ sông Nile cạnh những vườn ô liu ngát nắng, tôi mộng thấy mình trong một ngàn năm ấy có lần bì bõm cày ruộng giữa trưa, trên bờ là người vợ nghèo mặt đỏ bừng, mồ hôi lấm tấm đang ngồi nghỉ… Tôi mộng thấy biết bao “mình” trong một ngàn năm…

………
Cầm viên gạch trên tay, tôi tưởng thấy quân Pháp chiếm Việt Nam vào nửa sau thế kỷ 19. Cầm viên gạch trên tay, tôi thấy những ngày kháng chiến cho đến sự chia đôi đất nước giữa thế kỷ 20. Cầm viên gạch trên tay, tôi thấy những người lính trẻ và già của hai miền ngã xuống, ngã xuống ở hai bên chiến tuyến vô hình, và những người dân cả trẻ lẫn già, cả nam lẫn nữ vĩnh viễn nằm lại bên những con đường nơi chiến tranh và lịch sử đã đi qua. Tất cả và tất cả những đồng bào của tôi nằm lại đâu đó rải rác trên quê hương này, trên đôi mắt khép vẫn còn loáng thoáng giấc mơ Thăng Long mờ mịt hương khói. Cầm viên gạch trên tay, tôi thấy ngày thống nhất, mọi đôi mắt của tất cả những người còn sống đều nhòa lệ. Và bây giờ, cầm viên gạch hoàng thành trên tay, tôi tưởng thấy nhịp đập của hàng chục triệu trái tim ở đất nước này và của hàng triệu trái tim của người Việt xa xứ, ở Nam Phi, Ai Cập, ở châu Âu, Bắc Mỹ, ở những nơi xa xôi nhất của trái đất, tất cả và tất cả đều ít nhất vẫn có một cái gì đó chung cùng với nhịp đập của Thăng Long.

Áp viên gạch Thăng Long vào ngực, tôi cảm thấy ước mơ của Thiền sư Vạn Hạnh và của vua Lý Công Uẩn, đúc kết những ước mơ của những đời trước đó, nóng ran lồng ngực: Đất nước Việt phải là con rồng bay lên (đúng với tên gọi Thăng Long). Có ngỡ ngàng quá chăng khi người ta gọi những nước châu Á đang bước vào hàng các nước phát triển là những con rồng. Nhưng không chỉ có thế, ước mơ của đời Lý và đời Trần kế tiếp cho đến những đời sau, không chỉ là xây dựng đất nước Việt Nam thành một quốc gia hưng thịnh về vật chất (kinh tế, quân sự…) mà còn thịnh vượng về tinh thần, bởi vì con rồng là biểu tượng cho tinh thần và tâm linh của nền văn minh Đông Á. Trong quẻ đầu tiên của Kinh Dịch, quẻ Kiền, con rồng tượng trưng cho tinh thần và tâm linh. Cả sáu hào của quẻ Kiền đều nói về sự đi lên, sự tiến hóa, sự nâng cấp của tinh thần, của tâm linh, và được tượng trưng bằng con rồng. Con rồng từ dưới đất bay lên trời là quá trình tiến hóa, thăng hoa của tinh thần và tâm linh con người. Hào 1: “Rồng còn tiềm ẩn” (Tiềm long). Hào 2: “Rồng hiện trên cánh đồng; thiên hạ văn minh” (Hiện long tại điền; thiên hạ văn minh). Hào 3: “Người quân tử suốt ngày tự cường không ngừng nghỉ (như con rồng)” (Quân tử chung nhật càn, dĩ tự cường bất tức). Hào 4: “Có khi bay vút lên cao, có khi lui về dưới vực” (Hoặc dược tại uyên). Hào 5: “Rồng bay lên trời, thịnh trị cao cả” (Phi long tại thiên, thượng trị dã). Hào 6: “Rồng bay cao quá mức, coi chừng có hối hận” (Kháng long hữu hối).

Thiền sư Vạn Hạnh và vua Lý Công Uẩn hẳn ý thức hơn ai hết con đường (đạo) nào, và cách nào để con rồng tâm linh của dân tộc Việt, vốn được xem là con Rồng cháu Tiên bay bổng trên trời. Đâu có phải tình cờ khi suốt chiều dài lịch sử của dân tộc Việt, khi nào dân tộc hưng thịnh thì đạo Phật hưng thịnh và đạo Phật hưng thịnh thì dân tộc hưng thịnh. Thăng Long hai chữ ấy đâu chỉ đẹp một cách tình cờ.

Cầm viên gạch trên tay, tôi thấy cả một ước mơ, một giấc mơ – theo cách tôi hiểu, giấc mơ là giấc mộng mở mắt, mộng giữa ban ngày – kéo dài suốt một ngàn năm của dân tộc. Cầm viên gạch trên tay tôi thấy những con người, những đôi mắt vĩnh viễn khép lại trong chiến tranh, chiến tranh chống ngoại xâm và nội chiến, những đôi mắt kiên định và những đôi mắt ngỡ ngàng, những đôi mắt chết già và những đôi mắt chết trẻ, tất cả những đôi mắt đều chia sẻ với nhau một giấc mơ Thăng Long duy nhất, dù rõ rệt hay mơ hồ, dù ý thức hay vô thức. Cầm viên gạch trên tay, tôi thấy những đất đai, những năm đất đai màu mỡ được mùa, những năm đất đai gặp nắng hạn, lũ lụt, nhưng dù đất đai ở đâu, vùng khắc nghiệt hay thuận lợi trù phú, tất cả mọi vùng đều chia sẻ một giấc mơ niềm tin với cuộc đất Thăng Long. Đất Thăng Long ngàn năm vẫn như thế: “Vùng này mặt đất rộng mà bằng phẳng, thế đất cao ráo mà sáng sủa, dân cư không khổ, không thấp trũng, muôn vật hết sức tươi tốt phồn vinh. Xem khắp nước Việt đó là nơi thắng địa, thực là chỗ hội tụ quan yếu của bốn phương, đúng là nơi thượng đô kinh sư của muôn đời” (Bài Chiếu dời đô về Thăng Long của Lý Công Uẩn). Cầm viên gạch trên tay, tôi thấy sự thiêng liêng của lịch sử, một cộng nghiệp lớn lao của một dân tộc mà người xưa thường gọi là thiên mệnh.

Cầm viên gạch trên tay, tôi thấy rất nhiều giấc mộng trong chỉ một giấc mơ:
  Suốt một ngàn năm, tôi chưa hề mơ làm vương làm tướng,
  Chỉ mơ làm một người lính già giữ mãi một Thăng Long.


Mặc áo giáp đi xuyên qua lịch sử

Lịch sử là kết quả của những hành động đã tạo ra của con người và tiếp tục được tạo ra bằng những hành động hiện tại. Hành động có thể là tốt, xấu, hoặc trung tính. Làm người không ai thoát khỏi việc tạo ra hành động, tạo ra lịch sử, dù của một cá nhân hay một xã hội.

Lịch sử là sự biểu hiện của nghiệp và nghiệp quả, nghĩa là sự biểu hiện của những hành động của con người. Lịch sử con người là những hưng thịnh và suy vi, những thành công và thất bại, những xây dựng và điêu tàn, những hòa bình và chiến tranh. Lịch sử, với rất nhiều máu và nước mắt, là những vết thương khổ đau in hằn lên cuộc sống của con người.

Một trong những công việc của Bồ tát là chữa trị những vết thương, những tai hại của giết hại, chiến tranh, trộm cướp, tà dâm, nói dối, say sưa và chuyển hóa tâm xấu ác của con người để họ không gây ra những nguyên nhân cho những tệ nạn ấy nữa. Thế nên Bồ tát là người sống cùng chúng sanh, chia sẻ cùng một lịch sử tốt xấu, hưng phế của chúng sanh, nhưng Bồ tát đi xuyên qua lịch sử mà không có các vết thương, các phiền não nhờ mặc áo giáp của trí huệ tánh Không và đại bi vô ngại.


TRÍCH ĐOẠN HAY

Văn phong mạch lạc, câu nghĩa súc tích ngắn gọn chính là những đặc điểm chung rõ nét trong các tác phẩm của tác giả Đương Đạo Nguyễn Thế Đăng. Với tinh thần bất bộ phái, đậm lòng bi, với trí tuệ sâu sắc vượt thấu ngôn từ và lối chú giảng trực tiếp, thông qua tác phẩm của mình, tác giả đã đưa hành giả ngay lập tức cất bước trên con đường tu học, tại đây và bây giờ, không bị giới hạn bởi không gian, thời gian hay hoàn cảnh. 

Là một người đọc và cũng là một người thực hành, việc được biết đến các tác phẩm và tác giả Nguyễn Thế Đăng thực sự là một ân phước to lớn trong cuộc đời này của tôi. Nguyện mong những ấn phẩm giá trị này sẽ sớm đến được tay những hành giả khát khao chánh Pháp.

Độc giả

Thuần Tâm

SÁCH CÙNG TÁC GIẢ

Đọc thử

Đọc thử

Với một ấn phẩm chứa đựng nhiều trí tuệ, được viết bằng thứ ngôn ngữ tràn đầy cảm hứng, qua mỗi một chương phần, chiều kích tinh thần của người đọc như được mở rộng thêm, sâu hơn, tràn hứng khởi để có thêm cơ hội tiếp chạm với sự tự do toàn diện, đó cũng chính là hiện tại vĩnh cửu.

Hiện Tại Vĩnh Cửu

119.000 vnđ
89.000 vnđ
25% 
OFF
98.000 vnđ
78.000 vnđ
20% 
OFF
Cuốn sách luận giảng về Nền tảng và Quả của tất cả tông phái Đại thừa, kể cả Mật thừa, tức là “Pháp thân của tất cả chư Phật”. Luận đã giảng dạy đầy đủ cả Ba thân Phật: Pháp thân, Báo thân và Ứng thân hay Hóa thân.

Thực Hành Theo Luận Đại Thừa Khởi Tín

Đọc thử

đặt mua những ẤN PHẨM khác của sách thiện tri thức

đặt mua những ẤN PHẨM khác của sách thiện tri thức

CÔNG TY XUẤT BẢN SÁCH THIỆN TRI THỨC

Hotline: 0328033988

Email: contact@thientrithuc.com.vn

Website: http://thientrithuc.com.vn

©2021 Allrights reserved thientrithuc.com.vn

HỆ THỐNG PHÁT HÀNH

Địa chỉ: T8 Times City, Hai Bà Trưng, Hà Nội