Một trong những điều tôi luôn đánh giá cao đối với câu chuyện về Chúa Giêsu rằng Ngài là một trong số ít nhân vật trong lịch sử tôn giáo tự nhận mình vừa là người vừa là thánh. Ngài ở đây, được cho là con của Chúa, nhưng con của Chúa cũng có những khoảnh khắc rất con người. Ngài có những lúc ở trong cảnh khốn cùng, và mặc dù Ngài gặp nguy khốn, Ngài vẫn có một cánh cổng mở ra điều gì đó vượt khỏi những gì Ngài đang trải qua. Chúa Giêsu không phải là người cố gắng vượt qua trải nghiệm của con người và thoát khỏi nó. Tầm nhìn của Ngài rất rộng lớn và bao la. Ngài thấy rằng không có sự khác biệt tối thượng giữa con người và thần thánh. Như Ngài đã nói: “Vương quốc Thiên đàng đang lan rộng khắp trái đất và loài người không nhìn thấy nó”.
Trong nhiều trường phái tâm linh, vương quốc thiên đàng, hay tự do, hay niết bàn, là một lối thoát khỏi thế giới nhị nguyên. Nó được coi là lối thoát khỏi những thăng trầm và hỗn loạn của sự tồn tại của con người. Nhưng điều mà tôi luôn thấy đẹp đẽ về câu chuyện của Chúa Giêsu là Ngài không tạo ra sự phân biệt như vậy. Đối với Ngài, bản thân thế giới chính là vương quốc thiên đàng, và những gì vượt ra ngoài thế giới này cũng là vương quốc thiên đàng. Đối với Chúa Giêsu, mọi thứ đều là sự biểu hiện của thần thánh.
Cuộc đời của Chúa Giêsu là một ví dụ rõ ràng về việc sống theo kiểu tầm nhìn này. Ngài đã dấn thân sâu vào đời sống, và Ngài biết rằng việc dấn thân vào đời sống là để cởi mở với “những gian khổ của vận mệnh đầy ác nghiệt” như Shakespeare đã nói, để cho chúng ta cởi mở với cách mà đời sống thực sự là: lúc lên, lúc xuống. Ý thức của chúng ta có thể bắt nguồn từ một điều gì đó vượt ra ngoài thế giới, trong một sự bí ẩn bao la khi tâm thức không bao giờ có thể hiểu được mà chỉ có thể trải nghiệm. Đó thực sự chỉ là vấn đề buông bỏ quan điểm tương đối này, buông bỏ những phán xét, ý tưởng và niềm tin của bản thân. Đó không phải là việc chúng ta cần loại bỏ những thứ này, mà chỉ đơn giản là thấy ra chúng chỉ là tương đối, và chúng không nắm giữ bất kỳ thực tại tối thượng nào. Khi đó chúng ta có thể tiếp cận được một chiều hướng ý thức hoàn toàn mới và khác hẳn – một chiều hướng của sự tĩnh lặng và bình yên, một chiều hướng của tâm linh trong sáng và bao la.
Nhận ra chiều hướng đó như bản chất mà chúng ta thực sự là, ý thức sâu sắc hơn về bản thân này, là sự giải phóng phi thường và sự tự do đáng kinh ngạc. Tuy nhiên, đó không phải là kết thúc cho sự thức tỉnh tâm linh của chúng ta. Cuối cùng, chúng ta sẽ phải buông bỏ ngay cả điều đó – tuy nhiên, chúng ta không chối bỏ nó cũng tương tự như không chối bỏ những trải nghiệm của con người. Cả thế giới hình tướng và vô hình tướng đều nằm trong bánh xe của nhị nguyên, vậy thì cái gì nằm bên ngoài đó? Liệu chúng ta có đủ can đảm để buông bỏ cả thiên đàng và địa ngục, buông bỏ sự ràng buộc của chúng ta không chỉ với cuộc sống trần thế và con người của chúng ta, mà còn buông bỏ cả sự dính mắc của chúng ta với tâm linh? Liệu chúng ta có thể thực sự buông bỏ những điều tốt đẹp về tâm linh, sự bình yên và sự tự do vĩ đại của cái không, sự tĩnh lặng tuyệt vời của tâm linh thuần khiết? Liệu chúng ta có thể tìm ra cách để không bám chặt vào những điều này không?
Bởi vì nếu chúng ta nắm giữ thực tại tâm linh, chúng ta sẽ gặp phải tình thế tiến thoái lưỡng nan mà nhiều người thực hành tâm linh gặp phải, đó là họ cảm nhận được hương vị của thiên đàng, của chiều không gian vô tướng và tâm thức của họ bám chặt lấy nó. Nhiều người phát hiện ra rằng họ muốn ở lại trong chiều không gian vô tướng, nhưng họ cứ bị kéo trở lại đây, xuống mặt đất, bởi công việc, gia đình và con cái của họ cũng như những nhu cầu cần thiết để hoạt động và tồn tại ở đây. Thế rồi họ tìm kiếm và tìm mọi cách để ở đây mà không thực sự ở đây. Tôi gặp rất nhiều người đã nghe câu nói này của Chúa Giêsu: “Ta ở trong thế gian, nhưng không thuộc về nó,” và họ sẽ nói: “Ồ, đó là điều tôi muốn! Tôi muốn ở trong thế gian, nhưng không thuộc về nó!” Nhưng thực sự ý của họ là: “Tôi muốn gần như không có mặt trong thế gian, nhưng điều tôi thực sự muốn trở thành là lạc vào chiều không gian vô tướng của ý thức thuần khiết đó.” Điều đó trở nên rất có vấn đề. Đối với một người, điều đó thực sự là không thể. Trong thế giới nhị nguyên, luôn có đến và đi, luôn có sống và chết, luôn có khoảnh khắc này và khoảnh khắc kia, nên cuối cùng chúng ta thực sự không thể nắm giữ bất cứ điều gì.Tôi thường nhắc nhở những người đến nghe tôi nói chuyện rằng: “Mặc dù tôi nói rất nhiều, và mặc dù có thể cho bạn rất nhiều thứ, nhưng cuối cùng, toàn bộ tâm linh là một quá trình đầu hàng, buông bỏ, đến mức mà ngay cả khi bạn nhận được sự mặc khải tâm linh vĩ đại nhất, cuối cùng bạn cũng sẽ phải buông bỏ điều đó luôn.” Tôi không có ý là bạn phải vứt nó đi như một mảnh rác, mà tôi muốn nói là hãy buông bỏ sự dính mắc của bạn vào nó. Ngay cả trong những cộng đồng tâm linh mà tôi gặp, rất ít người biết cách để không bị dính mắc vào thiên đàng.
Nhà hiền triết vĩ đại Ramana Maharshi đã nói một bài kệ rất nổi tiếng liên quan đến điều này: “Thế giới là ảo ảnh. Chỉ có Đại ngã (Brahman) là thật. Thế giới là Đại ngã.” Đại ngã có nghĩa là “thượng đế, thần thánh”. Dòng đầu tiên của bài kệ “Thế giới là ảo ảnh” là bước đầu tiên trong sự thức tỉnh của chúng ta. Chúng ta phải thấy rằng những gì chúng ta nghĩ, những gì chúng ta tin, những gì chúng ta tưởng tượng về bản thân mình chỉ là ảo tưởng. Toàn bộ sự sáng tạo này trong tâm thức của chúng ta không là gì ngoài sự tạo dựng. Nó khá ảo tưởng. Nó thực sự không có thật chút nào. Điều này cho phép chúng ta nhận ra rằng Đại ngã, đấng thiêng liêng, duy nhất là có thật, rằng trạng thái vô hình tướng này, rằng nơi của bản thể thuần khiết, của sự chưa sinh ra, chính là thực tại. Đó là nơi mà cả thế giới khởi sinh. Đó chính là nguồn gốc của thế giới hình tướng. Tuy nhiên, rất dễ bị mắc kẹt ở đó. Câu kệ cuối cùng vốn cần thiết để đưa chúng ta trở về với tầm nhìn siêu việt chân thực: “Thế giới là Đại ngã”. Bản thân thế giới này là thần thánh. Ở đó, Ramana đang chỉ cho chúng ta sự thật tính bất nhị, sự thật về tính nhất thể cơ bản của hình tướng và vô hình tướng.