ĐẶT MUA 

ĐỌC THỬ

Bộ sách của tác giả

Đương Đạo Nguyễn Thế Đăng

Đương Đạo Nguyễn Thế Đăng là một nhà sư, thuộc thế hệ thứ ba của chùa Tây Tạng ở Bình Dương. Nhiều năm qua, tác giả Nguyễn Thế Đăng đã viết hàng trăm bài đăng trên Văn Hóa Phật Giáo. Tuần san và Nguyệt san Giác Ngộ cũng đã đăng hàng chục bài của tác giả, chưa kể các báo điện tử như giacngo.vn, thuvienhoasen, phattuvietnam.net, vanhoaphatgiaoblog.com, sangdaotrongdoi.vn… mỗi báo cũng đã đăng hàng chục bài.
Tổ khai sơn chùa Tây Tạng ở Bình Dương là Thiền sư Nhẫn Tế (1888 – 1951). Tổ vốn thuộc dòng Lâm Tế đời thứ 40, từng sang Ấn Độ, Nepal và Tây Tạng tham bái và tu học. Tổ đã cầu đạo ở Tây Tạng, đắc pháp và được ban cho pháp danh Thubten Osel bởi những vị cao cấp của dòng Mũ Vàng (Gelugpa). Sau hơn một năm ở Tây Tạng, Tổ được phép trở về Việt Nam để lập chùa Tây Tạng, Bình Dương.

Đương Đạo Nguyễn Thế Đăng

📗 Tác phẩm tiêu biểu:
  • Cư Trần Lạc Đạo Phú (2025)
  • Trần Nhân Tông, Đời - Đạo không hai (2024)
  • 10 Tư tưởng Pháp Hoa trong đời sống hằng ngày (2024)
  • Tâm linh như là sự tiến hóa tất yếu của con người (2024)
  • Mở đôi mắt Kim Cương (2023)
  • Hiện tại vĩnh cửu (2023)
  • Vũ trụ trong hạt bụi (2022)
  • Bài ca của tự do và niềm vui (2022)
  • Thực hành theo Luận Đại thừa Khởi Tín (2021)
  • Thiền tông bản hạnh (2020)
  • Chú giảng Cư trần lạc đạo phú (2019)
  • Kinh Nhập Lăng Già – dịch và giảng (2016)
  • Lục Tổ Pháp Bảo Đàn Kinh giảng giải (2016)
  • Kinh Lăng Nghiêm hành giải (2016)
  • Kinh Viên Giác lược giảng (2015)
  • Con người toàn diện, hạnh phúc toàn diện (2012)
  • Thực hành con đường Bồ tát qua kinh Duy Ma Cật (2011)
  • Thực tại thiền (2003)
  • Bát nhã Tâm Kinh thiền giải (2002)

Giới thiệu tác giả

Ấn phẩm Tuệ Trung Thượng Sĩ

Dành cho những ai quan tâm tới:

Những ai quan tâm, tìm hiểu cuộc đời các nhân vật lịch sử nổi tiếng đời Trần nói riêng và Phật giáo đời Trần nói chung.

Khám phá con đường của Tuệ Trung Thượng sĩ, kết hợp được Đạo và đời ngay trong cuộc sống bình thường.

Khơi nguồn cảm hứng đối với phương pháp thực hành tâm linh đơn giản, không đi vào những phương pháp cầu kỳ, nhiều hình thức.

Những ai quan tâm, tìm hiểu cuộc đời các nhân vật lịch sử nổi tiếng đời Trần nói riêng và Phật giáo đời Trần nói chung.

Khám phá con đường của Tuệ Trung Thượng sĩ, kết hợp được Đạo và đời ngay trong cuộc sống bình thường.

Khơi nguồn cảm hứng đối với phương pháp thực hành tâm linh đơn giản, không đi vào những phương pháp cầu kỳ, nhiều hình thức.

Lời mời đọc cuốn sách

“Trong lịch sử Phật giáo thế giới nói chung và Phật giáo Việt Nam nói riêng, có rất nhiều bậc thánh giải thoát sống đời sống xuất gia. Nhưng những vị cư sĩ tại gia đạt được mức chứng ngộ cao cấp để giải thoát thì rất ít. Trong đó, phải kể đến Tuệ Trung Thượng sĩ (1230 – 1291) đời Trần. Tuy ông chứng đạo nhưng sống cuộc đời bình thường, một cuộc đời “hoan hỷ”, “sanh tử nhàn mà thôi”, “giang hồ tự vui thích”, “tự tại”, “muôn sự là trò chơi”, “phóng cuồng”, “rong chơi”… Ông là tấm gương sáng kết hợp được Đạo và đời ngay trong cuộc sống bình thường thế tục.
Phật giáo đời Trần mạnh mẽ, hiệu quả vì đi sâu vào đời sống xã hội. Trong xã hội phát triển ngày nay, Phật giáo cần đi sâu, thấm khắp trong mọi lĩnh vực của đời sống xã hội. Thế nên, đọc lại, tư duy lại, học lại cuộc đời đầy sức sống của Tuệ Trung Thượng sĩ không chỉ là tìm hiểu ý nghĩa những câu chữ Hán, những dấu vết khảo cổ hay ở trong bảo tàng viện, mà là học cái sức sống của ông, cái anh hùng hỷ xả của ông, cái sâu sắc về đạo biểu lộ trong cuộc đời thường của ông.”

Lời mời đọc cuốn sách

Sách cùng tác giả

Đương Đạo Nguyễn Thế Đăng

10 Tư Tưởng Pháp Hoa Trong Đời Sống Hằng Ngày

  • Khổ sách: 13 x 19 cm
  • Số Trang: 120 trang
  • NXB: Tôn Giáo
  • Giá bìa: 88.000 vnđ
  • Giá ưu đãi: 75.000 vnđ (-15%)

ĐẶT MUA

Mở Đôi Mắt Kim Cương

ĐẶT MUA

  • Khổ sách: 13 x 19 cm
  • Số Trang: 180 trang
  • NXB: Tôn Giáo
  • Giá bìa: 99.000 vnđ
  • Giá ưu đãi: 84.000 vnđ (-15%)

Tâm Linh Như Là Sự Tiến Hoá Tất Yếu Của Con Người

ĐẶT MUA

  • Khổ sách: 14,5 x 20,5 cm
  • Số Trang: 260 trang
  • NXB: Tôn Giáo
  • Giá bìa: 99.000 vnđ
  • Giá ưu đãi: 84.000 vnđ (-15%) 

Hiện Tại Vĩnh Cửu

ĐẶT MUA

  • Khổ sách: 14 x 20 cm
  • Số Trang: 264 trang
  • NXB: Tôn Giáo
  • Giá bìa: 119.000 vnđ
  • Giá ưu đãi: 101.000 vnđ (-15%)

Vũ Trụ Trong Hạt Bụi

ĐẶT MUA

  • Khổ sách: 14,5 x 20,5 cm
  • Số Trang: 368 trang
  • NXB: Tôn Giáo
  • Giá bìa: 118.000 vnđ
  • Giá ưu đãi: 100.000 vnđ (-15%)

Thực Hành Theo Luận 
Đại Thừa Khởi Tín

ĐẶT MUA

  • Khổ sách: 13 x 20,5 cm
  • Số Trang: 222 trang
  • NXB: Tôn Giáo
  • Giá bìa: 98.000 vnđ
  • Giá ưu đãi: 83.000 vnđ (-15%)

Tuệ Trung
Thượng Sĩ

ĐẶT MUA

  • Khổ sách: 13 x 19 cm
  • Số Trang: 184 trang
  • NXB: Thế Giới
  • Giá bìa: 99.000 vnđ
  • Giá ưu đãi: 79.200 vnđ (-20%)

Trần Nhân Tông,
Đời - Đạo không hai

  • Khổ sách: 13 x 19 cm
  • Số Trang: 144 trang
  • NXB: Tôn Giáo
  • Giá bìa: 93.000 vnđ
  • Giá ưu đãi: 79.000 vnđ (-15%)

ĐẶT MUA

Cư Trần Lạc Đạo Phú

  • Khổ sách: 13 x 19 cm
  • Số Trang: 136 trang
  • NXB: Tôn Giáo
  • Giá bìa:  89.000 vnđ
  • Giá ưu đãi:  76.000 vnđ (-15%)

ĐẶT MUA

( Chương trình diễn ra đến hết ngày...)

ĐẶT MUA SÁCH
CỦA TÁC GIẢ NGUYỄN THẾ ĐĂNG

ĐẶT MUA

Cảm ơn bạn đã ủng hộ Sách Thiện Tri Thức!

Đặt mua từ 20 sản phẩm trở lên, vui lòng liên hệ với
Hotline: 0328033988 (Zalo) để nhận ưu đãi về giá.
1. Thân phận, hoàn cảnh (condition) con người

Đời người là một cuộc tìm kiếm không dứt. Lớn lên, người ta tìm kiếm sự nghiệp, tình yêu và gia đình, tài sản, danh vọng… nhưng khi có được một đối tượng nào đó rồi, người ta lại mau chán và rồi tiếp tục tìm kiếm. Sự đói khát sở hữu này càng ngày càng muốn có thêm, nhưng chẳng bao giờ dừng, chẳng bao giờ thỏa mãn.

Sự tìm kiếm không dứt này nói lên một điều, con người luôn luôn cảm thấy thiếu thốn. Sự tìm kiếm và thiếu thốn không dứt này khiến cuộc đời cá nhân thành bất an, lo âu, chưa kể đến chúng ta đang sống trong một thế giới thay đổi hàng tháng, hàng ngày.

Sự tìm kiếm và cảm giác thiếu thốn thường trực này khiến xảy ra cạnh tranh, tranh chấp ngấm ngầm giữa các cá nhân, giữa các công ty trong xã hội, và có khi bùng nổ thành những cuộc chiến tranh giữa các quốc gia.

Không bao giờ bằng lòng, bất toại nguyện là thân phận con người. Và sự thật thứ nhất mà đạo Phật nêu lên là sự thật về khổ (khổ đế). Khổ, trong tiếng Pali, có nghĩa là “bất toại nguyện”.

Mãi mãi tìm kiếm và mãi mãi bất toại nguyện, đó là thân phận con người. Tại sao có sự thất bại này? Có phải vì đối tượng chúng ta tìm kiếm chỉ là tạm thời, không bền vững, không đủ sức làm một mục tiêu trọn đời, một kim chỉ nam định hướng cho năng lượng chính yếu của chúng ta tập trung và đổ vào đó? Tại sao có những người mà cuộc đời họ là sự biểu lộ của niềm vui thay vì lo âu buồn rầu, hạnh phúc thay vì bất an khổ sở, tự do tự tại thay vì “bị” sống?
Tuệ Trung Thượng sĩ là một trong những người “may mắn” ấy, ông đã tìm thấy, hay ít nhất,
nối kết được với con người chân thật của mình, “khuôn mặt xưa nay” của mình, đời sống tâm linh của mình, và từ đó ông cất lên tiếng hát Bài ca đời sống để cho chúng ta biết thế nào là tự do, hạnh phúc, hân hoan đích thực.
2. Đời sống hân hoan và bao la, sâu thẳm

Ở đây chỉ trích ra một số câu trong bài Phật tâm ca. Đối với ông, đời sống là thực tại bình thường mà vô cùng thiêng liêng, nhiệm mầu ngay trước mặt:








Đây là điều ai cũng thấy, cũng kinh nghiệm, nhưng chẳng mấy người thấu hiểu được ý nghĩa nhiệm mầu (diệu chỉ) của đời sống.

Qua đây chúng ta biết ý nghĩa của đời sống là gì, và sống là để thấu hiểu ý nghĩa đời sống. Ý nghĩa ấy nếu chỉ được kinh nghiệm qua năm giác quan và ý thức thì rất mờ nhạt, cạn cợt cho nên bất toại nguyện và phải đi tìm tiếp. Nó phải được kinh nghiệm ở tầng sâu nhất, tức là tầng nền tảng, cội nguồn của năm giác quan và ý thức. Nền tảng
của tâm, hay bản tâm, bản tánh của tâm, chính là cái có thể kinh nghiệm đời sống ở mức độ sâu nhất, rộng nhất.

Đời sống sở dĩ hiện hữu là để cho con người hưởng thụ. Đời thì gọi là “enjoy”, đạo thì gọi là “tam muội tự thọ dụng”. Nhưng nếu chỉ hưởng thụ bằng sáu giác quan, người ta sẽ mau chán, vì các giác quan thì giới hạn, nông cạn. Và có khi
hưởng thụ sáu giác quan cảm thấy chưa thỏa mãn thì càng muốn tăng thêm kích thích, tăng cường độ, dẫn đến sai lầm và khổ đau.

Người ta chỉ hưởng thụ trọn vẹn, và hưởng thụ trọn vẹn thì không còn lưu lại một tàn dư, vết tích nào. Như một loại nhiên liệu tốt, tinh chất, khi cháy sẽ không còn tàn dư, dấu vết. Hưởng thụ trọn vẹn thì không còn chờ đợi, mong trở lại, có thêm, nghĩa là trong đó không gian và thời gian cũng cháy tiêu trọn vẹn.

Nền tảng của tâm, bản tánh của tâm, bản tâm… khiến người ta có thể hưởng thụ đời sống trọn vẹn, không còn dư tàn. Nhưng bản tánh của tâm, bản tâm là gì? Tuệ Trung Thượng sĩ trả lời rất rõ ràng:






Tâm là cái ai cũng có, tâm là những ý tưởng, những cảm xúc, những kỷ niệm, những dự phóng… và bản tánh của tâm là tầng sâu nhất, tầng đáy của tâm. Tầng đáy của tâm, Tuệ Trung gọi là Tâm (viết hoa), và Tâm ấy là Phật, và bởi vì
Phật và Tâm đồng nghĩa, nên có thể viết chung là Phật – Tâm.

Đây là điều căn bản, nền tảng và cũng là mục đích của mọi phương pháp, mọi tông phái Phật
giáo. Đó cũng là ý nghĩa của cuộc đời: người ta sanh ra và rồi chết đi, đó là cơ hội tốt đẹp nhất để
tiếp xúc, nối kết và sống trọn vẹn tâm mình. Và diệu nghĩa của tâm bao trùm cả không gian thời
gian, đồng thời luôn luôn hiện hữu trước mắt:

Diệu nghĩa sáng ngời suốt cổ kim.
(Phật tâm ca)
Tâm tức Phật
Phật tức tâm
Diệu nghĩa sáng ngời suốt cổ kim
Xuân đến hoa xuân cười tự nở
Thu về đâu chẳng nước thu xanh.
Tâm tức Phật
Phật tức tâm
Diệu nghĩa sáng ngời suốt cổ kim.
(Phật tâm ca)
3. Nối kết và hợp nhất

Người nào cũng có bản tâm, Phật Tâm ấy tận đáy tâm thức mình; khuôn mặt xưa nay ấy, quê hương tưởng chừng mất lối ấy vẫn luôn luôn hiện diện nơi mỗi người. Nếu dùng lời kinh điển, thì: Tất cả chúng sanh đều có Phật tánh (Phật Tâm).

Tuệ Trung đã nối kết và hợp nhất được với thực tại gọi là Phật Tâm ấy:








Tâm của muôn pháp là bản tánh của tất cả sự vật, hiện tượng, gọi tắt là pháp tánh (dharmata). Tâm ông đã hợp, hợp nhất cùng Phật tâm, cùng với tâm của tất cả các sự vật, các sinh vật, tất cả các hiện tượng. Như thế là ông đã hợp nhất với tất cả vũ trụ, hợp nhất không phải bằng tâm thức hạn hẹp và thấp kém của con người bình thường mà hợp nhất bằng và qua Phật tâm. Nghĩa là hợp nhất mà không bị dính mắc lệ thuộc vào vũ trụ. Nói cách khác, ông trở thành vũ trụ mà chẳng phải là vũ trụ. Vũ trụ chỉ là một sân chơi cho người ngộ đạo.

Hợp nhất này là hợp nhất với Pháp, pháp tánh, bản tánh thường hằng thanh tịnh của các pháp, các hiện tượng. Pháp, pháp tánh thì vốn như nhiên suốt cổ kim.

“Tâm của muôn pháp là Phật tâm”: muôn pháp là muôn vật, có sự sống và cả không có sự
sống. Tất cả nối kết và hợp nhất trong Phật tâm. Như vậy Phật tâm là đại từ đại bi. Đại từ đại bi này
bao trùm và thâm nhập khắp vũ trụ, và nối kết tất cả lại với nhau.

Qua đoạn bài ca này, chúng ta thấy giải thoát không phải là từ bỏ thế giới, mà là thấy được và hợp nhất với Phật tâm, tức trí huệ và từ bi của vũ trụ. Phật tâm, pháp tánh vẫn hằng thanh tịnh, dù sự chuyển biến (theo nghiệp) của thế giới có thế nào đi nữa.
Lặng, lặng, lặng
Chìm, chìm, chìm.
Tâm của muôn pháp là Phật tâm
Phật tâm lại cùng tâm ta hợp
Pháp vốn như nhiên suốt cổ kim.
(Phật tâm ca)
1. Một cuộc đời không bình yên

Gia đình.
Tuệ Trung Thượng sĩ (1230-1291) là con của Trần Liễu, và là anh ruột của Trần Hưng Đạo. Trần Liễu là anh ruột của Trần Cảnh, tức vua Trần Thái Tông, vị vua đầu tiên của đời Trần.

Trần Thủ Độ đã chỉ đạo cho Trần Cảnh lấy Lý Chiêu Hoàng, vị cuối cùng của nhà Lý và sau đó Chiêu Hoàng nhường ngôi cho Trần Cảnh. Vì không có con, Trần Thủ Độ ép Trần Cảnh lấy vợ của Trần Liễu, lúc đó đã có thai vài tháng, lên làm hoàng hậu.

Đó là bi kịch ngay trong đời nhà Trần đầu tiên, vì sau này con của Trần Liễu là Trần Tung (Thượng sĩ Tuệ Trung) và Trần Hưng Đạo. Bên kia, con của vua Trần Thái Tông là Trần Quang Khải. Chúng ta đều biết Trần Quang Khải và Trần Hưng Đạo là hai người có công nhất trong các cuộc kháng chiến Nguyên Mông. Thậm chí trước khi mất Trần Liễu đã dặn dò Trần Hưng Đạo báo thù cho cha. Nhưng sự giàn hòa của hai tướng quốc lớn nhất của đời Trần là một câu chuyện cảm động vì nghĩa lớn thay vì tình riêng, và trong đó chắc chắn có ảnh hưởng của văn hóa Phật giáo, vì ba vị vua đầu tiên của đời Trần không chỉ là những vị vua tài giỏi mà còn là những hành giả cao cấp của Phật giáo.

Trong hoàn cảnh éo le như vậy, ngay cả Trần Cảnh tức vua Trần Thái Tông cũng đã có lần bỏ ngôi lên núi Yên Tử muốn sống đời xuất gia với Quốc sư Trúc Lâm. Thượng sĩ Tuệ Trung là anh cả của Trần Hưng Đạo, chắc hẳn
cũng bị không ít sóng gió trong tâm hồn trước sự ngang trái này của hoàn cảnh gia đình hoàng
gia họ Trần.
2. Một thời đại đầy thách thức

Ba cuộc kháng chiến chống quân Nguyên Mông xảy ra năm 1257-1258, năm 1285 và năm 1287-1288. Đó là một cuộc kháng chiến rất khó khăn vì cả ba lần nhà Trần đều phải rời bỏ kinh đô Thăng Long để cho giặc đốt phá.

Trần Hưng Đạo đều tham dự ở cả ba lần với chức danh cao nhất thống lĩnh toàn quân. Thượng sĩ Tuệ Trung là anh Trần Hưng Đạo và hơn hai tuổi, chắc hẳn ông đã tham dự cả ba lần kháng chiến chống Nguyên Mông. Lần thứ nhất khi ông 27 tuổi và lần thứ ba khi ông đã 58 tuổi và chỉ 3 năm sau thì từ giã cõi đời. Trong ba lần đó, hai lần sau ông đã tham dự nhiều hơn, nhiều trách nhiệm hơn, vì đã là hàng cao tuổi trong triều đình, và khi mất được vua phong tước Hưng Ninh Vương.

Như thế, suốt cuộc đời ông phải lo bận rộn với chiến trận để gìn giữ đất nước và nhà Trần.

Trong cuộc đời bận rộn ấy, ông vẫn theo con đường học đạo. Ông theo học Thiền sư Tiêu Dao, một nhà sư nổi tiếng cuối đời Lý. Tiêu Dao là học trò của Thiền sư Tức Lự. Về đạo học ông được vua Trần Thánh Tông thứ hai đời Trần, một vị thâm sâu về Thiền học, phong cho danh hiệu Thượng Sĩ, tương đương với từ Bồ tát. Ông còn là vị thầy của Điều Ngự Giác Hoàng Trần Nhân Tông, vị vua thứ ba đời Trần.

Qua tiểu sử vắn tắt này, chúng ta thấy Thượng sĩ tu Đạo ngay trong Đời, và ở Đời mà sống Đạo.
3. Sanh tử nhàn mà thôi

Cuộc đời một người nằm trong khoảng sanh ra (sinh) và chết đi (tử). Sanh tử là từ của Phật giáo để chỉ một đời người trong vòng sanh tử luân hồi. Đạo Phật chỉ dạy cho con người làm thế nào sử dụng đời người để biết được giải thoát và tự do.

Một người sống cùng thời với Thượng sĩ là tiểu đệ tử Pháp Đăng đã kính cẩn ca ngợi ông như thế này:

“ Mới biết Thượng sĩ thật là bậc Bồ tát sống, ở trong nhà vị đại anh hùng Vạn Kiếp Hưng Đạo đại vương.

Thuở nhỏ, Thượng sĩ sống trọn đạo trung hiếu, đạo vua và cha. Gặp thời nước nhà lâm nạn, ngài đã hai lần ngăn giặc Thát Đát (Mông Cổ). Nghiệp lớn đã thành, bèn vui chơi thú Thiền”.

Vị Bồ tát sống ở trong đời ấy thấy đời sống như thế nào để có thể sống cả đời trong thế gian mà
vẫn vô sự, tự do, hoan hỷ?

Khi biết rằng cuộc đời của tất cả chúng ta đều xuất hiện từ nền tảng tánh Không, diễn biến trong đó, chúng ta bắt đầu giải thoát khỏi cuộc đời sanh tử. Giải thoát mà không phải “bỏ” cuộc đời. Hãy lấy một bài thơ, một bài ca làm thí dụ. Đó là bài Sanh tử nhàn mà thôi (Sanh tử nhàn nhi dĩ).























Ở đây không giảng giải chi tiết, chỉ nói đến lý do, nguyên nhân nào khiến Thượng sĩ vẫn ungdung vô sự trong cuộc đời sanh tử không bằng phẳng, êm ả của mình.

“Tâm hễ sanh, hề, sanh tử sanh. Tâm mà diệt, hề, sanh tử diệt. Sanh tử xưa nay tự tánh Không”. Sanh tử là sự sanh diệt của tâm. Sanh tử, sự sanh diệt của tâm khởi từ nền tảng tánh Không. (Một trong những định nghĩa tánh Không là không có tự tánh, vô tự tánh) và luôn luôn hiện hữu trong tánh Không. Quán chiếu sâu hơn nữa, không những sanh tử khởi từ tánh Không và hiện hữu trong tánh Không, mà sanh tử chính là tánh Không. Nghĩa là bản tánh của sanh tử, bản tánh của sự sanh diệt của tâm vốn là tánh Không. Sanh mà thật ra không sanh, diệt mà thật ra không diệt, vì sanh và diệt đều là tánh Không, ở trong tánh Không. Khi thấy và sống được trong nền tảng tánh Không của sanh tử và cũng là bản tánh Không của tâm, người ta giải thoát khỏi sanh tử ngay khi đang ở trong sanh tử:






Tất cả vấn đề là thấy và sống được tự tánh Không của tất cả tâm và vật.






















“ Sanh tự vọng sanh, tử vọng tử. Bốn đại vốn Không, từ đâu khởi?” Ở trên nói sanh tử chính là sự sanh diệt của tâm. Ở đây nói rõ thêm sanh tử, sanh diệt của tâm có thật hay không.

Cái thấy “ đạt quan” của ông là kết quả của sự quán chiếu – lâu mau tùy người – bản chất của sanh tử, sự sanh diệt của tâm. Sự quán chiếu này nằm trong con đường thực hành của đạo Phật. Muốn “ thấy rõ” phải thực hành thiền định và thiền quán (quán chiếu).

Quán chiếu để trực tiếp thấy được sự thật là “ sanh tự vọng sanh, tử vọng tử”. Nghĩa là sanh tử, sanh diệt đều là vọng, hư vọng, không thật. Vì sao thế? Vì sanh tử là sự sanh diệt của tâm, “ tâm hễ sanh thì sanh tử sanh, tâm mà diệt thì sanh tử diệt”. Sự sanh diệt của tâm là hư vọng vì sanh diệt ấy ở trên và ở trong “ pháp thân không đến cũng không đi, chân tánh không phải không chẳng phải”, nghĩa là ở trong tánh Không. Trong tánh không làm gì có chuyện sanh diệt, đến đi, phải chẳng phải? Thế nên mọi cái sanh diệt là tự vọng sanh, tự vọng tử... chẳng dính dáng gì đến “ con người thật” Pháp thân của ta cả.

Khi thấy được sanh tử, sanh diệt là hư vọng, người ta thấy ra nền tảng của sanh tử, của sanh diệt là “ Pháp thân không đến cũng không đi. Chân tánh không phải không chẳng phải”. Hoặc ngược lại, khi người ta trực tiếp thấy được phần nào Pháp thân, Chân tánh, tánh Không, người ta sẽ thấy sanh tử, sanh diệt là hư vọng, “ sanh tự vọng sanh, tử vọng tử”.

Cho nên cái làm cho sanh tử, sanh diệt trở lại bản chất của chúng là hư vọng, cái làm cho người ta có thể nhàn trong cuộc đời sanh tử và sanh diệt này, đó chính là Pháp thân, Chân tánh, tánh Không nền tảng của mọi xuất hiện của sanh tử, sanh diệt. Khi sống ở trong Pháp thân, Chân tánh, tánh Không, mọi xuất hiện của sanh tử, sanh diệt đều chẳng dính dáng gì đến ta cả, đều hư vọng, như huyễn. Do đó “ sanh tử nhàn mà thôi”.

Đó là “ về đến nhà”, hết lưu lạc. Đó là trực tiếp “ thấy mặt trăng”, khỏi cái khổ nhận lầm ngón tay là mặt trăng.
Tâm hễ sanh, hề, sanh tử sanh
Tâm mà diệt, hề, sanh tử diệt
Sanh tử xưa nay tự tánh Không
Thân huyễn hóa này cũng sẽ diệt
Phiền não Bồ đề thầm tiêu mòn
Địa ngục thiên đường tự khô kiệt
Lò lửa vạc sôi chóng mát lành
Rừng kiếm, núi đao liền gảy hết
Thanh Văn ngồi thiền, ta không ngồi
Bồ tát nói pháp, ta nói thật.

(Tâm chi sanh, hề, sanh tử sanh
Tâm chi diệt, hề, sanh tử diệt
Sanh tử nguyên lai tự tánh Không
Thử huyễn hóa thân diệc đương diệt
Phiền não Bồ đề ám tiêu ma
Địa ngục thiên đường tự khô kiệt
Hoạch thang, lô thán đốn thanh lương
Kiếm thọ, đao sơn lập tồi chiết
Thanh Văn tọa thiền ngã vô tọa
Bồ tát thuyết pháp ngô thực thuyết).
Phiền não Bồ đề thầm tiêu mòn
Địa ngục thiên đường tự khô kiệt
Lò lửa vạc sôi chóng mát lành
Rừng kiếm núi đao liền gảy hết.
Sanh tự vọng sanh, tử vọng tử
Bốn đại vốn Không, từ đâu khởi
Chớ như nai khát đuổi sóng nắng
Chạy đông bắt tây không tạm dừng.
Pháp thân không đến cũng không đi
Chân tánh không phải không chẳng phải
Đến nhà phải biết thôi hỏi đường
Thấy trăng khỏi khổ tìm ngón chỉ
Người ngu điên đảo sợ sanh tử
Người trí thấy rõ, nhàn mà thôi.
(Sanh tự vọng sanh, tử vọng tử
Tứ đại bổn Không tòng hà khởi
Mạc vi khát lộc sấn dương diễm
Đông tẩu tây trì vô tạm dĩ
Pháp thân vô khứ diệc vô lai
Chân tánh vô phi diệc vô thị
Đáo gia tu trí bãi vấn trình
Kiến nguyệt an năng khổ tầm chỉ
Ngu nhân điên đảo bố sanh tử
Trí giả đạt quan nhàn nhi dĩ.)
4. Sống mỗi ngày

Điều quan trọng nhất là sự hợp nhất với Phật tâm này được thực hiện và thể hiện trong đời sống thường nhật. Và nên nhớ rằng cuộc đời ông rất bận rộn: cả ba lần chống quân Nguyên, ông đều tham dự. Sau đây là đoạn tiếp liền theo đoạn trên.








Sự hợp nhất với Phật tâm, với toàn bộ đời sống, bây giờ đã trở nên thiêng liêng, không phải xảy ra đến trên một đỉnh núi nào hay một cõi trời nào, mà xảy ra trong cuộc sống thường ngày,
nơi những hành vi nhỏ nhặt: “đi cũng thiền, ngồi cũng thiền”.

Khi nối kết, hợp nhất được với Phật tâm, “tâm của tất cả hiện hữu”, người ta trở nên không thể hư hoại, “trong lò lửa đỏ một cành sen” và luôn luôn được tiếp sức bởi nguồn năng lượng Phật tâm, nghĩa là luôn luôn tràn đầy năng lượng, “mất ý khí (năng lượng) lại thêm ý khí”.

Tràn đầy năng lượng, người ta mới có thể tùy duyên với “được” và “mất”, và chỗ nào cũng “cứ tiện an”.

Khi nối kết được và sống được trong Phật tâm, trong pháp tánh của muôn pháp thì cuộc đời trần gian này không còn là môi trường cho được và mất, vinh và nhục, khen và chê, khổ và vui:







Không được, không mất, không thêm không bớt, không những đối với cái toàn thể mà còn đối với mỗi phần tử. Tất cả là như thị, và mỗi phần tử cũng là như thị. (Bốn mươi chín ấy là “thất thất” (bảy lần bảy).

Khi ấy cuộc đời bình thường hàng ngày là vườn hoa Hoa Nghiêm (vườn Hoa tạng), mặt đất mỗi ngày là đất của Phật pháp thân Tỳ Lô Giá Na:
Tỉnh! Tỉnh! Thức
Thức! Tỉnh! Tỉnh
Bốn bề dẫm đất chớ lệch nghiêng
Ai người ở đây tin được vậy
Trên đỉnh Tỳ Lô bước bước đi.
(Phật tâm ca)
Đi cũng thiền
Ngồi cũng thiền
Trong lò lửa đỏ một đóa sen
Mất ý khí lại thêm ý khí
Chỗ được an tiện cứ tiện an.
(Phật tâm ca)
Cũng không được cũng không mất
Bốn mươi chín ấy là thất thất
Sáu độ muôn hạnh: sóng trên biển
Ba độc chín tình: nhật giữa không.
(Phật tâm ca)

Trích đoạn hay

1. Thân phận, hoàn cảnh (condition) con người

Đời người là một cuộc tìm kiếm không dứt. Lớn lên, người ta tìm kiếm sự nghiệp, tình yêu và gia đình, tài sản, danh vọng… nhưng khi có được một đối tượng nào đó rồi, người ta lại mau chán và rồi tiếp tục tìm kiếm. Sự đói khát sở hữu này càng ngày càng muốn có thêm, nhưng chẳng bao giờ dừng, chẳng bao giờ thỏa mãn.

Sự tìm kiếm không dứt này nói lên một điều, con người luôn luôn cảm thấy thiếu thốn. Sự tìm kiếm và thiếu thốn không dứt này khiến cuộc đời cá nhân thành bất an, lo âu, chưa kể đến chúng ta đang sống trong một thế giới thay đổi hàng tháng, hàng ngày.

Sự tìm kiếm và cảm giác thiếu thốn thường trực này khiến xảy ra cạnh tranh, tranh chấp ngấm ngầm giữa các cá nhân, giữa các công ty trong xã hội, và có khi bùng nổ thành những cuộc chiến tranh giữa các quốc gia.

Không bao giờ bằng lòng, bất toại nguyện là thân phận con người. Và sự thật thứ nhất mà đạo Phật nêu lên là sự thật về khổ (khổ đế). Khổ, trong tiếng Pali, có nghĩa là “bất toại nguyện”.

Mãi mãi tìm kiếm và mãi mãi bất toại nguyện, đó là thân phận con người. Tại sao có sự thất bại này? Có phải vì đối tượng chúng ta tìm kiếm chỉ là tạm thời, không bền vững, không đủ sức làm một mục tiêu trọn đời, một kim chỉ nam định hướng cho năng lượng chính yếu của chúng ta tập trung và đổ vào đó? Tại sao có những người mà cuộc đời họ là sự biểu lộ của niềm vui thay vì lo âu buồn rầu, hạnh phúc thay vì bất an khổ sở, tự do tự tại thay vì “bị” sống?
Tuệ Trung Thượng sĩ là một trong những người “may mắn” ấy, ông đã tìm thấy, hay ít nhất,
nối kết được với con người chân thật của mình, “khuôn mặt xưa nay” của mình, đời sống tâm linh của mình, và từ đó ông cất lên tiếng hát Bài ca đời sống để cho chúng ta biết thế nào là tự do, hạnh phúc, hân hoan đích thực.
2. Đời sống hân hoan và bao la, sâu thẳm

Ở đây chỉ trích ra một số câu trong bài Phật tâm ca. Đối với ông, đời sống là thực tại bình thường mà vô cùng thiêng liêng, nhiệm mầu ngay trước mặt:








Đây là điều ai cũng thấy, cũng kinh nghiệm, nhưng chẳng mấy người thấu hiểu được ý nghĩa nhiệm mầu (diệu chỉ) của đời sống.

Qua đây chúng ta biết ý nghĩa của đời sống là gì, và sống là để thấu hiểu ý nghĩa đời sống. Ý nghĩa ấy nếu chỉ được kinh nghiệm qua năm giác quan và ý thức thì rất mờ nhạt, cạn cợt cho nên bất toại nguyện và phải đi tìm tiếp. Nó phải được kinh nghiệm ở tầng sâu nhất, tức là tầng nền tảng, cội nguồn của năm giác quan và ý thức. Nền tảng
của tâm, hay bản tâm, bản tánh của tâm, chính là cái có thể kinh nghiệm đời sống ở mức độ sâu nhất, rộng nhất.

Đời sống sở dĩ hiện hữu là để cho con người hưởng thụ. Đời thì gọi là “enjoy”, đạo thì gọi là “tam muội tự thọ dụng”. Nhưng nếu chỉ hưởng thụ bằng sáu giác quan, người ta sẽ mau chán, vì các giác quan thì giới hạn, nông cạn. Và có khi
hưởng thụ sáu giác quan cảm thấy chưa thỏa mãn thì càng muốn tăng thêm kích thích, tăng cường độ, dẫn đến sai lầm và khổ đau.

Người ta chỉ hưởng thụ trọn vẹn, và hưởng thụ trọn vẹn thì không còn lưu lại một tàn dư, vết tích nào. Như một loại nhiên liệu tốt, tinh chất, khi cháy sẽ không còn tàn dư, dấu vết. Hưởng thụ trọn vẹn thì không còn chờ đợi, mong trở lại, có thêm, nghĩa là trong đó không gian và thời gian cũng cháy tiêu trọn vẹn.

Nền tảng của tâm, bản tánh của tâm, bản tâm… khiến người ta có thể hưởng thụ đời sống trọn vẹn, không còn dư tàn. Nhưng bản tánh của tâm, bản tâm là gì? Tuệ Trung Thượng sĩ trả lời rất rõ ràng:






Tâm là cái ai cũng có, tâm là những ý tưởng, những cảm xúc, những kỷ niệm, những dự phóng… và bản tánh của tâm là tầng sâu nhất, tầng đáy của tâm. Tầng đáy của tâm, Tuệ Trung gọi là Tâm (viết hoa), và Tâm ấy là Phật, và bởi vì
Phật và Tâm đồng nghĩa, nên có thể viết chung là Phật – Tâm.

Đây là điều căn bản, nền tảng và cũng là mục đích của mọi phương pháp, mọi tông phái Phật
giáo. Đó cũng là ý nghĩa của cuộc đời: người ta sanh ra và rồi chết đi, đó là cơ hội tốt đẹp nhất để
tiếp xúc, nối kết và sống trọn vẹn tâm mình. Và diệu nghĩa của tâm bao trùm cả không gian thời
gian, đồng thời luôn luôn hiện hữu trước mắt:

Diệu nghĩa sáng ngời suốt cổ kim.
(Phật tâm ca)
Tâm tức Phật
Phật tức tâm
Diệu nghĩa sáng ngời suốt cổ kim
Xuân đến hoa xuân cười tự nở
Thu về đâu chẳng nước thu xanh.
Tâm tức Phật
Phật tức tâm
Diệu nghĩa sáng ngời suốt cổ kim.
(Phật tâm ca)
3. Nối kết và hợp nhất

Người nào cũng có bản tâm, Phật Tâm ấy tận đáy tâm thức mình; khuôn mặt xưa nay ấy, quê hương tưởng chừng mất lối ấy vẫn luôn luôn hiện diện nơi mỗi người. Nếu dùng lời kinh điển, thì: Tất cả chúng sanh đều có Phật tánh (Phật Tâm).

Tuệ Trung đã nối kết và hợp nhất được với thực tại gọi là Phật Tâm ấy:








Tâm của muôn pháp là bản tánh của tất cả sự vật, hiện tượng, gọi tắt là pháp tánh (dharmata). Tâm ông đã hợp, hợp nhất cùng Phật tâm, cùng với tâm của tất cả các sự vật, các sinh vật, tất cả các hiện tượng. Như thế là ông đã hợp nhất với tất cả vũ trụ, hợp nhất không phải bằng tâm thức hạn hẹp và thấp kém của con người bình thường mà hợp nhất bằng và qua Phật tâm. Nghĩa là hợp nhất mà không bị dính mắc lệ thuộc vào vũ trụ. Nói cách khác, ông trở thành vũ trụ mà chẳng phải là vũ trụ. Vũ trụ chỉ là một sân chơi cho người ngộ đạo.

Hợp nhất này là hợp nhất với Pháp, pháp tánh, bản tánh thường hằng thanh tịnh của các pháp, các hiện tượng. Pháp, pháp tánh thì vốn như nhiên suốt cổ kim.

“Tâm của muôn pháp là Phật tâm”: muôn pháp là muôn vật, có sự sống và cả không có sự
sống. Tất cả nối kết và hợp nhất trong Phật tâm. Như vậy Phật tâm là đại từ đại bi. Đại từ đại bi này
bao trùm và thâm nhập khắp vũ trụ, và nối kết tất cả lại với nhau.

Qua đoạn bài ca này, chúng ta thấy giải thoát không phải là từ bỏ thế giới, mà là thấy được và hợp nhất với Phật tâm, tức trí huệ và từ bi của vũ trụ. Phật tâm, pháp tánh vẫn hằng thanh tịnh, dù sự chuyển biến (theo nghiệp) của thế giới có thế nào đi nữa.
Lặng, lặng, lặng
Chìm, chìm, chìm.
Tâm của muôn pháp là Phật tâm
Phật tâm lại cùng tâm ta hợp
Pháp vốn như nhiên suốt cổ kim.
(Phật tâm ca)
1. Một cuộc đời không bình yên

Gia đình.
Tuệ Trung Thượng sĩ (1230-1291) là con của Trần Liễu, và là anh ruột của Trần Hưng Đạo. Trần Liễu là anh ruột của Trần Cảnh, tức vua Trần Thái Tông, vị vua đầu tiên của đời Trần.

Trần Thủ Độ đã chỉ đạo cho Trần Cảnh lấy Lý Chiêu Hoàng, vị cuối cùng của nhà Lý và sau đó Chiêu Hoàng nhường ngôi cho Trần Cảnh. Vì không có con, Trần Thủ Độ ép Trần Cảnh lấy vợ của Trần Liễu, lúc đó đã có thai vài tháng, lên làm hoàng hậu.

Đó là bi kịch ngay trong đời nhà Trần đầu tiên, vì sau này con của Trần Liễu là Trần Tung (Thượng sĩ Tuệ Trung) và Trần Hưng Đạo. Bên kia, con của vua Trần Thái Tông là Trần Quang Khải. Chúng ta đều biết Trần Quang Khải và Trần Hưng Đạo là hai người có công nhất trong các cuộc kháng chiến Nguyên Mông. Thậm chí trước khi mất Trần Liễu đã dặn dò Trần Hưng Đạo báo thù cho cha. Nhưng sự giàn hòa của hai tướng quốc lớn nhất của đời Trần là một câu chuyện cảm động vì nghĩa lớn thay vì tình riêng, và trong đó chắc chắn có ảnh hưởng của văn hóa Phật giáo, vì ba vị vua đầu tiên của đời Trần không chỉ là những vị vua tài giỏi mà còn là những hành giả cao cấp của Phật giáo.

Trong hoàn cảnh éo le như vậy, ngay cả Trần Cảnh tức vua Trần Thái Tông cũng đã có lần bỏ ngôi lên núi Yên Tử muốn sống đời xuất gia với Quốc sư Trúc Lâm. Thượng sĩ Tuệ Trung là anh cả của Trần Hưng Đạo, chắc hẳn
cũng bị không ít sóng gió trong tâm hồn trước sự ngang trái này của hoàn cảnh gia đình hoàng gia họ Trần.
2. Một thời đại đầy thách thức

Ba cuộc kháng chiến chống quân Nguyên Mông xảy ra năm 1257-1258, năm 1285 và năm 1287-1288. Đó là một cuộc kháng chiến rất khó khăn vì cả ba lần nhà Trần đều phải rời bỏ kinh đô Thăng Long để cho giặc đốt phá.

Trần Hưng Đạo đều tham dự ở cả ba lần với chức danh cao nhất thống lĩnh toàn quân. Thượng sĩ Tuệ Trung là anh Trần Hưng Đạo và hơn hai tuổi, chắc hẳn ông đã tham dự cả ba lần kháng chiến chống Nguyên Mông. Lần thứ nhất khi ông 27 tuổi và lần thứ ba khi ông đã 58 tuổi và chỉ 3 năm sau thì từ giã cõi đời. Trong ba lần đó, hai lần sau ông đã tham dự nhiều hơn, nhiều trách nhiệm hơn, vì đã là hàng cao tuổi trong triều đình, và khi mất được vua phong tước Hưng Ninh Vương.

Như thế, suốt cuộc đời ông phải lo bận rộn với chiến trận để gìn giữ đất nước và nhà Trần.

Trong cuộc đời bận rộn ấy, ông vẫn theo con đường học đạo. Ông theo học Thiền sư Tiêu Dao, một nhà sư nổi tiếng cuối đời Lý. Tiêu Dao là học trò của Thiền sư Tức Lự. Về đạo học ông được vua Trần Thánh Tông thứ hai đời Trần, một vị thâm sâu về Thiền học, phong cho danh hiệu Thượng Sĩ, tương đương với từ Bồ tát. Ông còn là vị thầy của Điều Ngự Giác Hoàng Trần Nhân Tông, vị vua thứ ba đời Trần.

Qua tiểu sử vắn tắt này, chúng ta thấy Thượng sĩ tu Đạo ngay trong Đời, và ở Đời mà sống Đạo.
3. Sanh tử nhàn mà thôi

Cuộc đời một người nằm trong khoảng sanh ra (sinh) và chết đi (tử). Sanh tử là từ của Phật giáo để chỉ một đời người trong vòng sanh tử luân hồi. Đạo Phật chỉ dạy cho con người làm thế nào sử dụng đời người để biết được giải thoát và tự do.

Một người sống cùng thời với Thượng sĩ là tiểu đệ tử Pháp Đăng đã kính cẩn ca ngợi ông như thế này:

“ Mới biết Thượng sĩ thật là bậc Bồ tát sống, ở trong nhà vị đại anh hùng Vạn Kiếp Hưng Đạo đại vương.

Thuở nhỏ, Thượng sĩ sống trọn đạo trung hiếu, đạo vua và cha. Gặp thời nước nhà lâm nạn, ngài đã hai lần ngăn giặc Thát Đát (Mông Cổ). Nghiệp lớn đã thành, bèn vui chơi thú Thiền”.

Vị Bồ tát sống ở trong đời ấy thấy đời sống như thế nào để có thể sống cả đời trong thế gian mà
vẫn vô sự, tự do, hoan hỷ?

Khi biết rằng cuộc đời của tất cả chúng ta đều xuất hiện từ nền tảng tánh Không, diễn biến trong đó, chúng ta bắt đầu giải thoát khỏi cuộc đời sanh tử. Giải thoát mà không phải “bỏ” cuộc đời. Hãy lấy một bài thơ, một bài ca làm thí dụ. Đó là bài Sanh tử nhàn mà thôi (Sanh tử nhàn nhi dĩ).























Ở đây không giảng giải chi tiết, chỉ nói đến lý do, nguyên nhân nào khiến Thượng sĩ vẫn ungdung vô sự trong cuộc đời sanh tử không bằng phẳng, êm ả của mình.

“Tâm hễ sanh, hề, sanh tử sanh. Tâm mà diệt, hề, sanh tử diệt. Sanh tử xưa nay tự tánh Không”. Sanh tử là sự sanh diệt của tâm. Sanh tử, sự sanh diệt của tâm khởi từ nền tảng tánh Không. (Một trong những định nghĩa tánh Không là không có tự tánh, vô tự tánh) và luôn luôn hiện hữu trong tánh Không. Quán chiếu sâu hơn nữa, không những sanh tử khởi từ tánh Không và hiện hữu trong tánh Không, mà sanh tử chính là tánh Không. Nghĩa là bản tánh của sanh tử, bản tánh của sự sanh diệt của tâm vốn là tánh Không. Sanh mà thật ra không sanh, diệt mà thật ra không diệt, vì sanh và diệt đều là tánh Không, ở trong tánh Không. Khi thấy và sống được trong nền tảng tánh Không của sanh tử và cũng là bản tánh Không của tâm, người ta giải thoát khỏi sanh tử ngay khi đang ở trong sanh tử:






Tất cả vấn đề là thấy và sống được tự tánh Không của tất cả tâm và vật.






















“ Sanh tự vọng sanh, tử vọng tử. Bốn đại vốn Không, từ đâu khởi?” Ở trên nói sanh tử chính là sự sanh diệt của tâm. Ở đây nói rõ thêm sanh tử, sanh diệt của tâm có thật hay không.

Cái thấy “ đạt quan” của ông là kết quả của sự quán chiếu – lâu mau tùy người – bản chất của sanh tử, sự sanh diệt của tâm. Sự quán chiếu này nằm trong con đường thực hành của đạo Phật. Muốn “ thấy rõ” phải thực hành thiền định và thiền quán (quán chiếu).

Quán chiếu để trực tiếp thấy được sự thật là “ sanh tự vọng sanh, tử vọng tử”. Nghĩa là sanh tử, sanh diệt đều là vọng, hư vọng, không thật. Vì sao thế? Vì sanh tử là sự sanh diệt của tâm, “ tâm hễ sanh thì sanh tử sanh, tâm mà diệt thì sanh tử diệt”. Sự sanh diệt của tâm là hư vọng vì sanh diệt ấy ở trên và ở trong “ pháp thân không đến cũng không đi, chân tánh không phải không chẳng phải”, nghĩa là ở trong tánh Không. Trong tánh không làm gì có chuyện sanh diệt, đến đi, phải chẳng phải? Thế nên mọi cái sanh diệt là tự vọng sanh, tự vọng tử... chẳng dính dáng gì đến “ con người thật” Pháp thân của ta cả.

Khi thấy được sanh tử, sanh diệt là hư vọng, người ta thấy ra nền tảng của sanh tử, của sanh diệt là “ Pháp thân không đến cũng không đi. Chân tánh không phải không chẳng phải”. Hoặc ngược lại, khi người ta trực tiếp thấy được phần nào Pháp thân, Chân tánh, tánh Không, người ta sẽ thấy sanh tử, sanh diệt là hư vọng, “ sanh tự vọng sanh, tử vọng tử”.

Cho nên cái làm cho sanh tử, sanh diệt trở lại bản chất của chúng là hư vọng, cái làm cho người ta có thể nhàn trong cuộc đời sanh tử và sanh diệt này, đó chính là Pháp thân, Chân tánh, tánh Không nền tảng của mọi xuất hiện của sanh tử, sanh diệt. Khi sống ở trong Pháp thân, Chân tánh, tánh Không, mọi xuất hiện của sanh tử, sanh diệt đều chẳng dính dáng gì đến ta cả, đều hư vọng, như huyễn. Do đó “ sanh tử nhàn mà thôi”.

Đó là “ về đến nhà”, hết lưu lạc. Đó là trực tiếp “ thấy mặt trăng”, khỏi cái khổ nhận lầm ngón tay là mặt trăng.
Tâm hễ sanh, hề, sanh tử sanh
Tâm mà diệt, hề, sanh tử diệt
Sanh tử xưa nay tự tánh Không
Thân huyễn hóa này cũng sẽ diệt
Phiền não Bồ đề thầm tiêu mòn
Địa ngục thiên đường tự khô kiệt
Lò lửa vạc sôi chóng mát lành
Rừng kiếm, núi đao liền gảy hết
Thanh Văn ngồi thiền, ta không ngồi
Bồ tát nói pháp, ta nói thật.

(Tâm chi sanh, hề, sanh tử sanh
Tâm chi diệt, hề, sanh tử diệt
Sanh tử nguyên lai tự tánh Không
Thử huyễn hóa thân diệc đương diệt
Phiền não Bồ đề ám tiêu ma
Địa ngục thiên đường tự khô kiệt
Hoạch thang, lô thán đốn thanh lương
Kiếm thọ, đao sơn lập tồi chiết
Thanh Văn tọa thiền ngã vô tọa
Bồ tát thuyết pháp ngô thực thuyết).
Phiền não Bồ đề thầm tiêu mòn
Địa ngục thiên đường tự khô kiệt
Lò lửa vạc sôi chóng mát lành
Rừng kiếm núi đao liền gảy hết.
Sanh tự vọng sanh, tử vọng tử
Bốn đại vốn Không, từ đâu khởi
Chớ như nai khát đuổi sóng nắng
Chạy đông bắt tây không tạm dừng.
Pháp thân không đến cũng không đi
Chân tánh không phải không chẳng phải
Đến nhà phải biết thôi hỏi đường
Thấy trăng khỏi khổ tìm ngón chỉ
Người ngu điên đảo sợ sanh tử
Người trí thấy rõ, nhàn mà thôi.
(Sanh tự vọng sanh, tử vọng tử
Tứ đại bổn Không tòng hà khởi
Mạc vi khát lộc sấn dương diễm
Đông tẩu tây trì vô tạm dĩ
Pháp thân vô khứ diệc vô lai
Chân tánh vô phi diệc vô thị
Đáo gia tu trí bãi vấn trình
Kiến nguyệt an năng khổ tầm chỉ
Ngu nhân điên đảo bố sanh tử
Trí giả đạt quan nhàn nhi dĩ.)
4. Sống mỗi ngày

Điều quan trọng nhất là sự hợp nhất với Phật tâm này được thực hiện và thể hiện trong đời sống thường nhật. Và nên nhớ rằng cuộc đời ông rất bận rộn: cả ba lần chống quân Nguyên, ông đều tham dự. Sau đây là đoạn tiếp liền theo đoạn trên.








Sự hợp nhất với Phật tâm, với toàn bộ đời sống, bây giờ đã trở nên thiêng liêng, không phải xảy ra đến trên một đỉnh núi nào hay một cõi trời nào, mà xảy ra trong cuộc sống thường ngày,
nơi những hành vi nhỏ nhặt: “đi cũng thiền, ngồi cũng thiền”.

Khi nối kết, hợp nhất được với Phật tâm, “tâm của tất cả hiện hữu”, người ta trở nên không thể hư hoại, “trong lò lửa đỏ một cành sen” và luôn luôn được tiếp sức bởi nguồn năng lượng Phật tâm, nghĩa là luôn luôn tràn đầy năng lượng, “mất ý khí (năng lượng) lại thêm ý khí”.

Tràn đầy năng lượng, người ta mới có thể tùy duyên với “được” và “mất”, và chỗ nào cũng “cứ tiện an”.

Khi nối kết được và sống được trong Phật tâm, trong pháp tánh của muôn pháp thì cuộc đời trần gian này không còn là môi trường cho được và mất, vinh và nhục, khen và chê, khổ và vui:







Không được, không mất, không thêm không bớt, không những đối với cái toàn thể mà còn đối với mỗi phần tử. Tất cả là như thị, và mỗi phần tử cũng là như thị. (Bốn mươi chín ấy là “thất thất” (bảy lần bảy).

Khi ấy cuộc đời bình thường hàng ngày là vườn hoa Hoa Nghiêm (vườn Hoa tạng), mặt đất mỗi ngày là đất của Phật pháp thân Tỳ Lô Giá Na:
Tỉnh! Tỉnh! Thức
Thức! Tỉnh! Tỉnh
Bốn bề dẫm đất chớ lệch nghiêng
Ai người ở đây tin được vậy
Trên đỉnh Tỳ Lô bước bước đi.
(Phật tâm ca)
Đi cũng thiền
Ngồi cũng thiền
Trong lò lửa đỏ một đóa sen
Mất ý khí lại thêm ý khí
Chỗ được an tiện cứ tiện an.
(Phật tâm ca)
Cũng không được cũng không mất
Bốn mươi chín ấy là thất thất
Sáu độ muôn hạnh: sóng trên biển
Ba độc chín tình: nhật giữa không.
(Phật tâm ca)

đặt mua những ẤN PHẨM khác của sách thiện tri thức

đặt mua những ẤN PHẨM khác của sách thiện tri thức

MUA NGAY

©2024 Bản quyền thuộc về Sách Thiện Tri Thức

CÔNG TY XUẤT BẢN SÁCH THIỆN TRI THỨC

Địa chỉ: số 141, ngõ 325 Kim Ngưu, Hai Bà Trưng, Hà Nội

Hotline: + 84328 033 988

Email: contact@thientrithuc.com.vn

Website: https://thientrithuc.com.vn

HỆ THỐNG PHÁT HÀNH